Tuyển tập với một số bài văn hay lớp 9

Đề 5. Em hãy phân tích bài thơ “Bếp lửa ” của Bằng Việt.

Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn

nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có

sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng

Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà

nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng

Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài

thơ “Bếp lửa” của ông.

Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn

nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có

sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng

Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng

nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng

Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài

thơ “Bếp lửa” của ông.

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trương thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ

“ Bếp lưả” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài

thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể

hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương,

đất nước.

Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất

khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:

“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

pdf46 trang | Chia sẻ: xuannguyen98 | Lượt xem: 730 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tuyển tập với một số bài văn hay lớp 9, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i không khí ghê 
rợn của nạn ñói 1945 trong tâm trí ñứa cháu. Cháu lúc nào cũng ñược bà chở che, bà dẫu 
có ñói cũng ñể cháu thiếu bữa ăn nào, bà ñi mót từng củ khoai, ñào từng củ sắn ñểâ cháu 
ăn cho khỏi ñói: 
“Lên bốn tuổi cháu ñã quen mùi khói 
Năm ấy là năm ñói mòn ñói mỏi 
Bố ñi ñánh xe khô rạc ngựa gầy 
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu 
Nghĩ lại ñến giờ sống mũi còn cay!” 
 Chính “mùi khói” ñã xua ñi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính 
cái mùi khói ấy ñã quện lại và bám lấy tâm hồn ñứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, 
những kí ức ấy cũng sẽ ñể lại ít nhiều ấn tượng trong lòng ñứa cháu ñể rồi khi nghĩ lại 
lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là 
tấm lòng của người bà làm ñứa cháu không cầm ñược nước mắt? 
 – Thư viện Sách Tham Khảo 20 
“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp 
Tu hú kêu trên những cách ñồng xa 
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà 
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế 
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!” 
 “Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa củasự sống và của tìng yêu bà cháy 
bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy.Chính hình ảnh bếp lửa 
quê hương, bếp lửa của tình bà cháu ñó ñã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác 
trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. ðó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã 
lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái ñói, và dường như ñó cũng là một 
chiếc ñồng hồ của ñứa cháu ñể nhắc bà rằng: “Bà ơi, ñến giờ bà kể chuyện cho cháu 
nghe rồi ñấy!”. Từ “tu hú” ñược ñiệp lại ba lấn làm cho âm ñiệu cấu thơ thêm bồi hồi tha 
thiết, làm cho người ñọc cảm thấy như tiếng tu hú ñang từ xa vọng về trong tiềm thức 
của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc mơ hà, lúc văng vẳng từ nững cánh ñồng xa lâng lâng lòng 
người cháu xa xứ. Tiiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của ñứa cháu trải 
dài hơ, rộng hơn trong cái không gian xa thẳng của nỗi nhớ thương. 
 Nếu như trong những năm ñói kém của nạn ñói 1945, bà là người gắn bó với tác 
giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống 
Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu ñậm: 
“Mẹ cùng cha bận công tác không về 
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe 
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. 
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc 
Tu hú ơi! Chẳng ñến ở cùng bà 
Kêu chi hoài trên những cách ñồng xa” 
 Trong tám năm ấy, ñất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng ñi tản cư, bố 
mẹ phải ñi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường 
như ñối với ñứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ.? cùng bà, ngày nào cháu 
cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà 
như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như ñối với mỗi 
chúng ta, cha sẽ là cánh chim ñể nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là 
cành hoa tươi thắm nhất ñể con cài lên ngực áo thì ñoiá với Bằng Việt, người bà vừa là 
cha, vừalà mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu 
là vô cùng thiêng liêng và quý giá ñối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh 
bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy ñầu 
tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính ñầu tiên. Không chỉ thế, 
bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, ñạo làm người. Nững bài học ñó 
sẽ là hành trang mang theo suốt quãng ñời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà 
dành cho cháu ñã thất sự một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho ñứa 
cháu be ùbỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu ñã 
ñi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu 
chuyện những ngày ở Huế,... Thi sĩ bổng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng ñến ở cùng 
bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của ñứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ 
 – Thư viện Sách Tham Khảo 21 
trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” ñã ñược nhắc ñi nhắc lại nhiều lấn gợi lên hình 
ảnh hai bà cháu sóng ñôi, gắn bó, quấn qúit không rời. 
 Chiến tranh, một danh từ bình thườnh nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô 
cùng, nó ñã gây ra ñau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng 
trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia ñình bị chia cắt, nhà bị giặc ñốt cháy rụi... 
“Năm giặc ñốt làng cháy tàn cháy rụi 
Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi 
ðỡ ñần bà dựng lại túp lếu tranh 
Vẫng vững lòng bà dặn cháu ñinh ninh: 
“ Bố ở chiến khu bố còn việc bố 
Mày viết thư chớ kể này kể nọ 
Cứ bảo nhà vẫn ñược bình yên!’ 
 Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt ngèo, nghị lứccủa bà càng bền 
vững, tấm lòng ủa bà càng mênh mông. Qua ñó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, 
nhẫn nại và giàu ñức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu ñã bị ñốt 
nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay ñã khong còn, bà dù có ñau khổ thế nào cũng 
không dám nói ra vì sợ làm ñứa cháu bé bong của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu 
vượt qua mọi khó khăn, bà không ñứa con ñang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. 
ðiều ñó ta có thể thấy rõ qua lới dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ bảo 
nhà vẫn ñươc bình yên!”. Lới dăn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. 
Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà ñều phải nén vào trong lòng ñể yên 
lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu 
mà còn là một biểu tượng rõ nét cho nhữnh người phụ nữa Việt Nam giàu ñức hi sinh, 
thương con qúy cháu. 
 Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt ñã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn, 
một ngọn lửa: 
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn, 
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”. 
 Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn 
lửa của tình yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, 
ngọn lửa ñỏ hồng si sáng cho con ñường ñứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có 
ngọn lửa, nơi ñó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu. 
Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thớ 
muốn gởi tới bạn ñọc, qua ñó cũng là nh74ngbài học sâu sắc từ công việc nhó, lửa tưởng 
chừng ñơn giản: 
“ Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng ñượm” 
 Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng ñượm” ñã ñược nhắc lại ở cuối bài 
thơ như một lần nữa khẳng ñịnh lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu. 
“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi” 
 Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà ñã truyền cho ñứa cháu một tình yêu thương những 
người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ ñược quên ñi những năm tháng nghĩ 
tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu ñã sống vơi nhau, những năm tháng mà 
hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì. 
 – Thư viện Sách Tham Khảo 22 
 “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” 
 “Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng dạy cháu luôn phải mở lòng 
ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, ñừng bao giờ có một lối sống 
ích kỉ. 
 “Nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhỏ”. 
 Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu ñấy ñủ về vật chất mà c2n là người làm 
cho tuổi thơ của cháu thêm ñẹp. th6m huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim 
nhân hậu, người bà kì diệu ñã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn ñứa 
cháu ñể mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị 
nhưng có một sức mạnh kì diệu tứ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong 
“Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh: 
“Tiếng gà trưa 
Mang bao nhiêu hạnh phúc 
ðêm cháu về nằm mơ 
Giấc ngủ hồng sắc trứng.” 
 Suốt dọc bài thơ, mười lấn xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới 
bà.Âm ñiệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vao bãi 
biễn xanh thẳm lòng bà. Người bà ñã là, ñang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất 
ñối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà ñã trờ thành một người không thể thiếu 
trong trái tim cháu. 
 Giờ ñây, khi ñang ở xa bà nửa vòng trái ñất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình 
về bà: 
“Giờ cháu ñã ñi xa. Có ngọn khói trăm tàu 
Có lưả trăm nhà, niềm vui trăm ngả 
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở 
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” 
 Xa vòng tay chăm chút cuả bà ñể ñến vơí chân trơì mới, chính tình cảm cuả hai 
bà chaú ñã sươỉ ấm lòng tác giả trong cái muà ñông lạnh giá cuả nước Nga. ðứa cháu 
nhỏ cuả bà ngàu xưa giờ ñã trưởng thành nhưng trong lòng vần luôn ñinh ninh nhớ về 
góc bếp, nới nắng mưa hai bà cháu có nhau. ðưá cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng 
thể nào quên ñược vì ñó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cuả ñưá chaú ñã ñược 
nuôi dưỡng ñể lớn lên từ ñó. 
 “ ðọc xong bài thơ, nhắm mắt laị tưởng tưởng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình 
ảnh bếp lưả hồng và dáng ngươì bà lặng lẽ ngồi bê. Hình ảnh có tính sóng ñôi này hiện 
lên thật sống ñộng, rõ ràng như thể nét khắc, nét chạm vậy...” (Văn Giá). Bài thơ Bếp 
lưả sẽ sống maĩ trong lòng bạn ñọc nhờ sưc truyền cảm sâu sắc cuả nó. Bài thơ ñã khơi 
dạy trong lòng chúng ta một tình cảm cao ñẹp ñối với gia ñình, với những ngươì ñã tô 
màu lên tuổi thơ trong sáng cuả ta. 
ðề 6. Em hãy phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. 
 – Thư viện Sách Tham Khảo 23 
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng ñã trở thành 
ñề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời ñại. Nếu 
như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh ñêm trăng sáng tuyệt ñẹp gợi lên nỗi niềm nhớ 
quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung 
dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì ñến với bài thớ “Ánh trăng” của 
Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. ðó 
chính là ñạo lí “uống nước nhớ nguồn”. 
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn ñẫm cái hồn của ca dao, dân ca 
Việt Nam . Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, ñi sâu vào cái nghĩa tình 
muôn ñời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng ñối với nhà thơ có 
ý nghĩa ñặïc biệt: ñó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. 
Nó như một hồi chuông cảng tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên ñi quá khứ. 
 Tác giả ñã mở ñầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ và 
trong chiến tranh: 
 “Hồi nhỏ sống với ñồng 
 với sông rồi với bể 
 hồi chiến tranh ở rừng 
 vầng trăng thành tri kỉ” 
 Hình ảnh vầng trăng ñang ñược trải rộng ra trong cái không gian êm ñềm và 
trong sáng của thuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như ñã diễn tả 
một cách khái quát về sự vận ñộng cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và 
lớn lên có nhiều thứ ñể gắn bó và liên kết. Cánh ñồng, sông và bể là nhưng nơi chốn cất 
giữ bao kỉ niệm của một thời ấâu thơ mà khó có thể quên ñược. Cũng chính nới ñó, ta 
bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “ñồng”, “sông” và ñiệp từ “ với” ñã 
diễn tả tuổi thơ ñược ñi nhiều, tiếp xúc nhiều và ñược hưởng hạnh phúc ngắm những 
cảnh ñẹp của bãi bồi thiên nhiên cũa tác giả.Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có 
ñược ! Khi lớn lên, vầng trăng ñã tho tác giả vào chiến trường ñể “chờ giặc tới’.Trăng 
luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những ñau 
thương và khốc liệt của bom ñạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng 
con ñường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng ñù, tâm sự của những 
người lính lại mở ra ñể vơi ñi bớt nỗi cô ñơn, nỗi nhớ nhà. Trăng ñã thật sự trởø thành 
“tri kỉ” của người lính trong nhưng năm tháng máu lửa. 
 Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng ñã qua của cuộc ñời 
người lính gắn bó với thiên nhiên, ñất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng ñù, người bạn 
tri kỉ ñó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên ñược: 
 “Trần trụi với thiên nhiên 
 hồn nhiên như cây cỏ 
 ngỡ không bao giờ quên 
 cái vầng trăng tình nghĩa” 
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm 
cho âm ñiệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫng ñang 
tràn ñầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ ñã tô ñâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn 
 – Thư viện Sách Tham Khảo 24 
nhiên của người lính trong nhữnh năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị 
ñó là tâm hồn của những người nhà quê, của ñồng, của sông. của bể và của những người 
lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phài làm quen với 
môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ: 
 “Từ hồi về thành phố 
 quen ánh ñiện, cửa gương 
 vầng trăng ñi qua ngõ 
 như người dưng qua ñường” 
 Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở 
lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con người 
không thể kháng cự lại sự thay ñổi ñó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với 
những thứ xa hoa nơi “ánh ñiện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa ñó, người 
lính ñã quên ñi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên 
ñược, “người tri kỉ ấy” ñi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không 
biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì ñó làm rung ñộng lòng 
người ñoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. 
Cũng chính phép nhân hoá ñó làm cho người ñọc cảm thương cho một “người 
bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, 
những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác ñã lôi kéo con 
gười ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người ñã lấn át lí trí 
của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi ñược sống 
ñầy ñủ về mặt vật chất thì thường hay quên ñi những giá trị tinh thần, quên ñi cái nền 
tảng cơ bản củacuộc sống, ñó chình là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống 
bất ngờ xảy ra buộc ngươi lính phải ñối mặt: 
 “Thình lình ñèn ñiện tắt 
 phòng buyn -ñinh tối om 
 vội bật tung cửa sổ 
 ñột ngột vầng trăng tròn” 
 Khi ñèn ñiện tắt, cũng là khi không còn ñược sống trong cái xa hoa, ñầy ñủ về 
vật chất, người lính bỗng phải ñối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, 
“ñột ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì ñó. ðó chẳng 
phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình ñây hay sao? Con người ấy 
không hề biết ñược rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn ñã bị anh ta lãng 
quên luôn ở ngoài kia ñể chờ ñợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con 
người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ ñã quên ñi mình. Vầng 
trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng ñón nhận tấm lòng của một con 
người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc ñời mỗi con người không ai có 
thể ñóan biết trước ñược. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có 
khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, ñời người là một chuỗi dài với những 
qunh co, uốn khúc . Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người 
mới thật sự hiểu ñược cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình 
dài và rộng của cuộc ñới. Dường như người lính trong bài thơ ñã hiểu ñược ñiều ñó! 
 – Thư viện Sách Tham Khảo 25 
 “Ngửa mặt lên nhìn mặt 
 có cái gì rưng rưng 
 như là ñồng là bể 
 như là sông là rừng” 
 Khi người ñối mặt với trăng, có cái gì ñókhiến cho người lính áy náydù cho 
không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt 
người ñang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong 
tận ñáy lòng và dường như nước mắt ñang muốn trào ra vì xúc ñộng trước lòng vị tha 
của người bạn “tri kỉ” của mình . ðối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như 
ñang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nới có “sông” và 
có “bể” .Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi 
niềm và ngững giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt 
nước mắt ấy ñã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh 
trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh ñược láy lại 
làm sáng tỏ những ñiều mà con người cảm nhận ñược. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ ñẹp mộc 
mạc ấy không bao giờ bị mất ñi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và 
nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. ðoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân 
thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh ñi vào lòng người. 
Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba ñã thực sự thức tỉnh con người: 
 “Trăng cứ tròn vành vạnh 
 kề chi người vô tình 
 ánh trăng im phăng phắc 
 ñủ cho ta giật mình” 
 Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc ñộc ñáo và ñạt tới chiều sâu tư tưởng và 
triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ ñẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn ñầy và không hề 
bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng 
không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn ñó ñủù khiến cho con người giật mình. 
Ánh trăng như một tấm gương ñể cho con người soi mình qua ñó, ñể con người nhận ra 
mình ñể thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ ñiều gì 
trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì ñi nũa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc 
cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người. 
 “Ánh trăng” ñã ñi vào lòng người ñọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở ñối 
với mỗi người: Nếu ai ñã lỡ quên ñi, ñã lỡ ñánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì 
hãy thức tỉnh và tìmlại những giá trị ñó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì 
hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, ñừng ñể quá muộn. Bài thơ 
không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những nét ñột phá trong nghệ thuật. Thể thơ 
năm chữ ñược vận dụng sáng tạo, các chữ ñầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những 
cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng ñiệu tâm tình dã gấy 
ấn tượng mạnh trong lòng người ñọc. 
------------------------------------------- 
 – Thư viện Sách Tham Khảo 26 
ðề 8. Em hãy phân tích ñoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trích trong tác phẩm 
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du. 
NguyÔn Du lµ mét bËc thÇy vÒ t¶ c¶nh. NhiÒu c©u th¬ t¶ c¶nh cña «ng cã thÓ coi nh− 
lµ chuÈn mùc cho vÎ ®Ñp cña th¬ ca cæ ®iÓn: 
- D−íi tr¨ng, quyªn ® gäi hÌ 
§Çu t−êng löa lùu lËp loÌ ®©m b«ng. 
- Long lanh ®¸y n−íc in trêi 
Thµnh x©y khãi biÕc, non ph¬i bãng vµng... 
Víi nh÷ng c©u th¬ nµy, NguyÔn Du ®G lµm ®Ñp, lµm giµu cã thªm rÊt nhiÒu cho ng«n 
ng÷ d©n téc. Tõng cã ý kiÕn cho r»ng, so víi tiÕng H¸n vèn cã tÝnh hµm sóc, tÝnh biÓu 
hiÖn rÊt cao th× tiÕng ViÖt trë nªn qu¸ n«m na, Ýt kh¶ n¨ng biÓu hiÖn. Tuy nhiªn, NguyÔn 
Du ®G chøng minh r»ng ng«n ng÷ tiÕng ViÖt cã mét kh¶ n¨ng biÓu hiÖn v« giíi h¹n. 
Nh−ng NguyÔn Du kh«ng chØ giái vÒ t¶ c¶nh mµ cßn giái vÒ t¶ t×nh c¶m, t¶ t©m 
tr¹ng. Trong quan niÖm cña «ng, hai yÕu tè t×nh vµ c¶nh kh«ng t¸ch rêi nhau mµ lu«n ®i 
liÒn víi nhau, bæ sung cho nhau. VÝ dô, trong hai c©u th¬ t¶ c¶nh chÞ em Thuý KiÒu ®i 
ch¬i xu©n: 
Nao nao dßng n−íc uèn quanh 
DÞp cÇu nho nhá cuèi ghÒnh b¾c ngang. 
C¶nh rÊt ®Ñp vµ thanh, øng víi t©m hån hai chÞ em ®ang nhÑ nhµng th¬i thíi. Ng−îc 
l¹i, khi ng−êi buån th× c¶nh còng buån theo. Trong mét ®o¹n th¬ kh¸c thuéc TruyÖn 
KiÒu, «ng viÕt: 
C¶nh nµo c¶nh ch¼ng ®eo sÇu 
Ng−êi buån c¶nh cã vui ®©u bao giê. 
Hai c©u th¬ nµy thÓ hiÖn rÊt râ quan niÖm cña NguyÔn Du vÒ mèi quan hÖ gi÷a t©m 
tr¹ng cña con ng−êi vµ c¶nh vËt. C¶nh vËt ®Ñp hay kh«ng ®Ñp, nhÑ nhµng, thanh tho¸t 
hay nÆng nÒ, u ¸m phô thuéc rÊt nhiÒu vµo t©m tr¹ng cña con ng−êi tr−íc c¶nh ®ã. 
§o¹n trÝch "KiÒu ë lÇu Ng−ng BÝch" lµ sù kÕt hîp, giao hoµ cña hai yÕu tè c¶nh vËt 
vµ t©m tr¹ng. VÒ c¶nh vËt cã lÇu cao, cã non xanh n−íc biÕc, s¬n thuû h÷u t×nh. NÕu Thuý 
KiÒu ë vµo mét hoµn c¶nh kh¸c, trong t©m tr¹ng kh¸c th× h¼n c¶nh ®ã sÏ rÊt ®Ñp. Tuy 

File đính kèm:

  • pdfTUYEN_TAP_BAI_VAN_HAY_LOP_9.pdf