Tài liệu Văn học - Thơ của Cao Bá Quát

Việc thất bại Cao Bá Quát bị bắt và bị chém; tộc thuộc ông cũng bị ghép vào tội tử hình. Người anh sanh đôi là Cao Bá Đạt đương làm tri Huyện Nông Cống (Thanh Hóa), bị bắt giải về kinh giữa đường thì tự vận. Con Cao Bá Đạt là Cao Bá Nhạ cải dạng đổi tên lên trốn ở Mỹ Đức (Hà Đông), sau cũng bị bắt làm tội.

Cao Bá Quát còn để lại một tập thơ nhan đề là "Chu thần thi tập" gồm những bài thơ văn vừa chữ Hán vừa chữ Nôm.

Thơ của Cao Bá Quát nổi tiếng là hay, người đương thời phải chịu là "Thánh Quát" và ngay cả vua Tự Đức cũng phải khen: "Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán." Đặc điểm của thơ ông là ở cái dồi dào mới lạ về phần lý tưởng, cái tế nhị về tình cảm, ở lối đặt câu giản dị tự nhiên, ở cách dùng chữ đôi khi rất táo bạo, kỳ thú, diễn tả đúng cái nhân sinh quan của một tâm hồn luôn luôn muốn tìm hướng đi lên cho mình và cả cho những kẻ xung quanh.

 

doc11 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 553 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu Văn học - Thơ của Cao Bá Quát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 THƠ CỦA CAO BÁ QUÁT.
Cao Bá Quát Hiệu là Chu Thần là một nhà thơ lỗi lạc ở đầu thế kỷ 19, có phong cách phóng nhiệm hơn đời...
Người làng Phú Thị, Huyện Gia Lâm, Xứ Kinh Bắc (nay thuộc Tỉnh Bắc Ninh, Bắc phần).
Vốn dòng khoa bảng. Theo học với cha là Cao Hữu Chiến (tục gọi là ông Đồ Cao). Gặp kỳ khảo hạch ở tỉnh nhà, ông đỗ Đầu Xứ. Năm 1831 (Minh Mạng thứ 12), ông đỗ Á nguyên trường thi Hà Nội. Vào Kinh Thi hội hai phen, vì không chịu theo khuôn phép, nên bị đánh hỏng. Từ đó, ông thường ngao du đó đây, lấy văn chương trêu cợt người đời.
Năm 1841 (Thiệu Trị nguyên niên), theo lời đề cử của quan đầu Tỉnh Bắc Ninh, ông được triệu vào Kinh sung chức hành tẩu bộ lệ.
Được cử chấm thi trường Hương Thừa Thiên, vì muốn cứu vớt cho một ít bài văn thi mà Phạm húy, chẳng may việc bại lộ, ông bị cắt chức và phát phối vào Đà NaÜng. Sau đó, ông được tha và được cử theo sứ bộ Đầu Tri Phú sang Tân Gia Ba. Về nước ông được phục chức cũ rồi thăng Chủ sự.
Chẳng được bao lâu, vì cá tính khí ngông nghêng. Không chịu khuất phục của ông, vào năm 1854 (Tự Đức thứ 7), ông phải đổi tên Sơn Tây giữ chức Giáo thọ Quốc Oai. Từ đó, ông sinh chán nản thất vọng và phẫn uất, rồi bỏ quan theo làm quân sư cho Lê Duy Cự để chống lại triều đình.
Việc thất bại Cao Bá Quát bị bắt và bị chém; tộc thuộc ông cũng bị ghép vào tội tử hình. Người anh sanh đôi là Cao Bá Đạt đương làm tri Huyện Nông Cống (Thanh Hóa), bị bắt giải về kinh giữa đường thì tự vận. Con Cao Bá Đạt là Cao Bá Nhạ cải dạng đổi tên lên trốn ở Mỹ Đức (Hà Đông), sau cũng bị bắt làm tội.
Cao Bá Quát còn để lại một tập thơ nhan đề là "Chu thần thi tập" gồm những bài thơ văn vừa chữ Hán vừa chữ Nôm.
Thơ của Cao Bá Quát nổi tiếng là hay, người đương thời phải chịu là "Thánh Quát" và ngay cả vua Tự Đức cũng phải khen: "Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán..." Đặc điểm của thơ ông là ở cái dồi dào mới lạ về phần lý tưởng, cái tế nhị về tình cảm, ở lối đặt câu giản dị tự nhiên, ở cách dùng chữ đôi khi rất táo bạo, kỳ thú, diễn tả đúng cái nhân sinh quan của một tâm hồn luôn luôn muốn tìm hướng đi lên cho mình và cả cho những kẻ xung quanh.
 Đế gia
Song mấn tiêu tiêu bất tự tri,
Hương thôn chỉ định điểm thị qui kì.
Mộc Miên điếm lý sương thu tảo,
Thiên mã hồ biên nhật thướng trì.
Lân hữu hốt phùng kinh sác vấn,
Mẫu thân sạ kiến hỷ giao bi.
Bình sinh đa nạn kim trường hối,
Úy hướng gia nhân ngữ biệt li.
Dịch Thơ:
 Về Đến Nhà
Mái tóc bơ phờ sự chẳng dè,
Trở về nay lại thấy làng quê.
Điếm Cây Gạo đó sương vừa ngớt,
Hồ Ngựa trời đây nắng chửa hoe.
Hàng cóm xôn xao dồn chuyện hỏi.
Mẹ già mừng tuổi thấy con về.
Đời gian nan mãi từ nay hối.
Bàn chuyện xa nhà dạ những e.
Nguyễn Văn Tú Dịch
 Sơ đầu
Nhất sinh cô phụ ngũ xa thư,
Duyệt tận phong ai phát dũ sơ!
Tâm phát cự tranh trường đoản sự,
Đáo phân như xứ tổng phân như!
Dịch Thơ:
 Chải Đầu
Đời năm xe sách cũng thừa,
Xông pha gió bụi bơ phờ tóc mai.
So chi lòng, tóc vắn dài?
Khi rối bời cũng rối bời như nhau!
Xuân Trang Dịch
 Tức sự
Nhãn khan cao điểu độc phàn lung,
Tự ỷ thằng sàng bất ngữ trung.
Ngũ dạ tâm tình đăng đối ảnh,
Nhất thu cảnh vật vũ giao phong.
Mộng hồi thành khuyết hồn nghi khách,
Lệ sái hành dương huyết bính không.
Cách xá hà nhân giải ngâm tụng,
Lũ tương văn tự vấn cơ ông.
Dịch Thơ:
Tức Sự
Tức Sự
Nhìn chim bay giỏi nhốt chơ vơ,
Trên võng kề lưng, chẳng nói thưa.
Tâm sự canh chầy đèn với bóng.
Cảnh tình thu trọn gió cùng mưa.
Mộng về thành khuyết hồn đâu tá?
Lệ rỏ gông cùm máu uổng chưa?
Ai đó cách nhà ngâm vịnh được,
Kẻ tù, thường đến hỏi văn thơ.
                 Hoàng Trung Thông Dịch Bottom of Form
Top of Form
 Du vân
Du vân vị hữu qui,
Đám mộ bất đắc nhàn.
Phong tòng hà phương lai?
Xuy nhập tằng phong gian.
Tứ hải dỹ vọng vũ,
Ngũ lôi trường bế sơn.
Cử thủ thị thiên biểu,
Nguyện ngôn túng cao phan.
Dịch Thơ:
 Đám Mây Trôi
Mây trôi trôi mãi chưa về,
Sớm hôm tất tả chẳng hề được yên.
Bỗng đâu trận gió nổi lên,
Đưa mây trôi giạt vào miền núi cao.
Trần gian đang ngóng mưa rào,
Sấm đâu còn ở nơi nào im hơi?
Ngẩng lên trông tận chân trời,
Ước gì bay bổng tuyệt vời với mây!
Nguyễn Văn Tú Dịch
 Tài Mai
Thí tương mai tử trịch sơn gian,
Nhất ác thanh tư ký bích loan.
Ký thủ lai thời xuân sắc hảo,
Dữ nhân công tác họa đồ khan.
Dịch Thơ:
 Trồng Mai
Đầu non nắm hạt mai gieo,
Giống thanh gửi chốn núi đèo xanh tươi.
Nữa mai xuân điểm bầu trời,
Bức tranh tuyệt tác cho đời ngắm chung.
                               Hoàng Tạo Dịch
 Đối Vũ
Bạn vũ khuynh thiên lậu,
Phi đào táp địa lai.
Thế liên giang sắc tráng.
Thanh nhập dạ phong ai.
Xích nhập hành hạ đạo?
Thương sinh tháng kỷ hồi?
Khánh tình ngâm vọng viễn,
Thu khí chính tương thôi.
Dịch Thơ:
 Nhìn Mưa
Nghiêng trời mưa giội gấp,
Chuyển đất sống bay tung.
Nước cả sông man mác,
Đêm khuya gió não nùng!
Vầng hồng đâu khuất mãi,
Dân chúng bao chờ mong!
Tình khách thơ trông ngóng,
Hơi thu rộn rã lòng!
Hóa Dân Dịch
 Ký Hận
Đoạn bồng phi nhứ lưỡng vô côn,
Tích biệt tần đề vị tử ngôn.
Độc hạc bất tằng tiêu kính ảnh,
Viễn sơn hà sự phá mi ngân.
Thư thành hận tự không đề huyết,
Tửu túy li bôi tức mộng hồn.
Liệu đắc lữ đình phân thủ hậu,
Kỷ hồi phong vũ ám tây thôn.
Dịch Thơ:
 Gởi Hận
Cỏ bồng lìa gốc liễu tơ bay,
Chưa chết xa nhau lời đắng cay!
Hạc lẻ gương chưa mờ chiếc bóng.
Non xa ngấn đã rạn đôi mày.
Dòng thơ oán hận lệ hòa máu,
Chén rượu phân kì hồn dễ say.
Tưởng tự chia tay nơi quán trọ,
Mấy hồi mưa gió ủ thôn tây.
                       Hoa Bằng Dịch
 Đại Hàn
Bần gia chỉ phạ độc hàn thôi,
Phú gia khước ố thử phục hồi.
Nhân tình giao cạnh lưỡng vị quyết,
Na tri tân tuế ám trung lai.
Dịch Thơ:
 Đại Hàn 
Nhà khó thì lo trời sớm rét,
Nhà giàu lại sợ tiết quay hè.
Hai bên tranh cãi bên nào phải?
Năm mới nào đâu lặng lẽ về.
Nguyễn Văn Tú Dịch
 Tội Định
Tội định thân hà dụng?
Tài sơ ngộ độc kỳ.
Đào chân tri hữu tại,
Chủy sở hạnh sơ tỳ.
Giảo thỏ năng tam quật,
Tiêu liêu khởi nhất chi?
Sở thân kinh vấn tấn,
Ngâm tọa thử chi di.
Dịch Thơ:
 Tội Đã Định
Tội khép mong gì nữa,
Tài non, đời đắng cay.
Sinh ta chừng định trước,
Đòn gậy thoát từ đây.
Thỏ phải ba hang nấp,
Chích nào một nhánh cây,
Người thân sơ đến hỏi,
Chốn ngâm, ngồi chống tay.
                 Hoàng Trung Thông
 Độc Dạ
Thành thị huyên ti địa,
Kiền khôn lão bệnh phu.
Tê cung thành nhũng thặng,
Bích tích thả nê đồ.
Hàn lạo nãi liên phát,
Tai lê huống vị tô.
Thái bình vô nhất lược,
Lộc lộc sỷ vi nho.
Dịch Thơ:
Đêm Ngồi Một Mình
Thị thành nơi ở thấp, ồn,
Một anh già ốm trong khuôn đất trời.
Mang thân thừa thãi ở đời,
Nín hơi lánh gót lẩn nơi bùn lầy.
Liên miên lụt rét gần đây,
Dân đen tai nạn bấy nay không lành.
Thái bình một chước chưa thành,
Tầm thường nghĩ thẹn cho mình nhà nho.
Vũ Mộng Hùng Dịch
 Quan Chấn
Tẩn khan môn ngoại động thanh ho,
An Thượng hòa nhân cánh họa đồ?
Văn đạo cật triêu tương chẩn thí,
Khả liên dị cảnh diệc huề phù!
Quân ân vị nhẫn di cùng hộ,
Thanh thuế thùy năng niệm nhất phu?
Túc tích thốn tâm không tự thác,
Đê thùy bất ngữ ỷ tường ngu.
Dịch Thơ:
 Quan Phát Chẩn
Chạy xem tiếng nhộn ở ngoài đường,
Tranh đói nhà ai vẽ một trương.
Thấy nói sáng nay ngồi phát chẩn,
Cách vùng bồng bế cảnh nên thương.
Ơn trên chưa nỡ quên nhà khó,
Đời thịnh ai lo một kẻ thường!
Lòng hẹn với lòng nay hóa hão,
Cúi đầu lẳng lặng dựa bên tường.
                         Nguyễn Văn Tú Dịch
 Bệnh Trung
Xuân lai tâm lực lưỡng kham tăng,
Tổn tận yên vi sấu bất thăng.
Nhập thế chích thân thiên lý mã,
Khan thư xong nhãn vạn thiên đăng.
Chuyết the ỷ chẩm sơ bồng mấn,
Trĩ tử khiên y tạ khúc quăng.
Nhất tiếu na tri nhàn vị đắc,
Tiểu lô tiên mính đạm như tăng?
Dịch Thơ:
 Trong Lúc Ốm
Tâm lực xuân này nghĩ đáng căm,
Vòng đai đã sút hẳn khôn cầm.
Vào đời thân ví ngựa ngàn dặm,
Đọc sách mắt như đèn muôn năm.
Tựa gối vợ đần tung tóc chải,
Lôi tay con nhỏ ngã đầu nằm.
Cười xòa nào biết nhàn chưa được,
Một ấm chè suông cảnh lão tăng.
Nguyễn Quí Liêm Dịch
 Hữu Sở Tư
Tiểu tiều nhân gia tử,
Song song bộ ngữ trì.
Vong tình năng hữu kỷ!
Ngô diệc ức ngô nhi.
Luyến mẫu đề cơ xứ,
Khiên ông học bái thì.
Môn lan kim bán tịch,
Ư nhĩ hệ tương ti.
Dịch Thơ:
Nỗi Nhớ
Đôi trẻ nhà ai đó?
Thỏ thẻ bước khoan thai.
Quên tình nào mấy kẻ?
Ta nhớ con ta hoài!
Khi quấy mẹ, kêu đói,
Lúc học ông, vái người.
Trước nhà nay nửa vắng,
Tưởng nhớ vì con ai!
                     Hóa Dân Dịch
 Vịnh Cù Dục
Hàn cao căng tảo tuệ,
Thê thác tại chu lan.
Chỉ vị năng nhân ngữ,
Phiên giao tổn thiệt đoan.
Pha tiền ngưu bối lạc,
Chi thượng thước sào an!
Bộc bộc phong trần lý,
Ninh tri dã hạc khoan.
Dịch Thơ:
 Vịnh Chim Sáo
Sáo kia những hợm sớm khôn,
Gửi thân vào chốn lồng son cửa đời.
Vì chân bập bẹ tiếng người,
Cho nên đầu lưỡi mi thời còn đâu!
Nào khi bãi vắng lưng trâu,
Nào khi tổ thước cành cây yên lành.
Phong trần sống kiếp loanh quanh,
Đời chim hạc nội thênh thênh, mong gì!
Hóa Dân Dịch
 Vọng Phu Thạch
Độc lập sơn đầu đệ nhất phong,
Chu điêu phấn tạ vị thùy dung?
Âm thư cửu đoạn nhân hà xứ?
Thiên hải vô nhai lộ kỷ trùng?
Huyết lệ yên hòa, minh nguyệt thấp,
Hương hoàn vân tích lục đài phong.
Thiên hoang địa lão tình do tạc,
Dạ dạxao tàn bích đỗng chung.
Dịch Thơ:
Hòn Vọng Phu
Đứng sững đầu non đỉnh tuyệt vời,
Son phai phấn lạt biết vì ai?
Người nơi nao vắng không tin tức?
Đường mấy trùng xa cách biển trời?
Mây phủ rêu xanh, làn tóc rủ,
Khói dầm trăng bạc, giọt chân rơi,
Trời già đất cỗi tình khôn chuyển,
Động biếc chuông đêm vẫn đổ hồi!
Hoàng Tạo Dịch
 Mộng Vong Nữ
Thân viễn ngô đương bệnh,
Tư nhi mỗi tiết ai.
Hốt nhiên trung dạ mộng,
Sậu kiến lệ như thôi.
Y phục hàn như phá,
Dung nhan thảm bất khai.
Thái diêm bần vị khuyết,
Tân khổ nhữ qui lai!
Dịch Thơ:
Chiêm Bao Thấy Con Gái Đã Mất
Nhà xa bệnh lại dày vò,
Nhớ con hằng nén xót chua nghẹn ngào.
Đêm qua bỗng thấy chiêm bao,
Gặp con, giọt lệ tuôn dào như mưa.
Áo đơn lạnh lẽo xác xơ,
Ủ ê nét mặt, bơ phờ hình dung!
Tuy nghèo dưa muối đủ dùng,
Đắng cay con hãy về với cha!
Nguyễn Văn Bách Dịch
 Hoành Sơn Quan
Địa biểu lập sàn nhan,
Liêu phong đáo hải gian.
Bách niên khan cổ lũy,
Thiên lý nhập trùng quan.
Túc điểu sơ đầu thụ,
Qui vân bán ủng sơn.
Trì trì Tô Quí tử,
Cửu tệ vị tri hoàn.
Dịch Thơ:
Ải Hoành Sơn
Non cao nêu đất nước,
Liền một dẫy ra khơi.
Thành cũ trăm năm vững,
Ải xa nghìn dặm dài.
Chim về rừng lác đác,
Mây bám núi chơi vơi.
Chàng Tô nấn ná mãi,
Tấm áo rách tơi rồi.
Hóa Dân Dịch
 Hàn Dạ Tức Sự
Hồi phong xuy quyện chẩm,
Sóc khí bội thê nhiên.
Xuyết tịch giao nô phú.
Phân khâm tà khách miên.
Hương sầu duy phạm dạ,
Thân sự dục qua niên.
Mạc tác du du tưởng,
Thư không tiếu vị biền.
Dịch Thơ:
Đêm Lạnh Tức Sự
Gió lồng thổi quanh gối,
Hơi bấc rét căm căm.
Tìm chiếu cho nhỏ đắp,
Chia chăn để khách nằm.
Nhớ nhà thức suốt sáng,
Tính việc dễ sang năm.
Đừng nghĩ miên man nữa,
Viết bóng chẳng quen làm.
                        Xuân Trang
 Dương Phụ Hành
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bặng lang kiên tọa thanh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hỏa minh,
Bả duệ nam nam hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thư lãn trỳ,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh thiến lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly!
Dịch Thơ:
Bài Hành Người Đàn Bà Phương Tây
Thiếu phụ Tây dương áo trăng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,
Ngó thuyền Nam, thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió thổi, đêm sương thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt ly này?
                                      Lê Tư Thục Dịch
 Lạc Sơn Lữ Trung
Thiền đệ sơn a thập nhất hài,
Hành hành bất đoạn tứ du tai!
Dã yên thúy tảo thiên phong tận,
U giản thanh truyền vạn mộc lai.
Điểu dục biệt nhân phi khứ chuyển,
Hoa năng tống khách lạc thời khai.
Thiếu niên tật tẩu chung hà sự?
Úy lộ man man trước lữ hoài!
Dịch Thơ:
Trọ Ở Lạc Sơn
Con đường quanh quất núi bao la,
Đi mãi, đi hoài nghĩ vẩn vơ.
Nghìn núi quét xanh màu khói nội,
Muôn cây nghe lọt tiếng khe xa.
Chim chừng luyến khách kêu khi biệt,
Hoa đợi đưa ai nở cuối mùa?
Tuổi trẻ bôn ba được gì nhỉ?
Mênh mang dặm khách rợn lòng ta!
                               Khương Hữu Dụng 

File đính kèm:

  • docTHO CAO BA QUAT.doc