Tài liệu Văn học - Hoàng Lê nhất thông chí

Khoa thi hương năm ấy, chúa lấy hai câu: "Sơn xuyên anh dục, hà hải tú chung" (Nghĩa là: "Khí thiêng của sông núi tụ lại, sự tốt đẹp của hồ biển đúc nên", ý muốn chỉ về Trịnh Cán), để làm đề thi. Các quan văn võ đưa đón ý chúa, cũng có nhiều kẻ lấy chữ: "Tính huy hải nhuận" (nghĩa là: "Sao sáng, biển hoà" tức là điềm sinh ra bậc thánh) làm câu chúc mừng.

Lúc vương tử Cán đầy tuổi tôi, cốt cách tướng mạo khôi ngô, đẫy đà, khác hẳn người thường. Đến khi biết nói, vương tử Cán đối đáp gãy gọn, cử chỉ không khác gì người lớn. Mỗi khi các quan văn võ vào thăm, vương tử tiếp đón với dáng bộ nghiêm chỉnh. Có người cách hàng năm mới gặp, vương tử cũng vẫn nhớ rõ họ, tên, kể lại chuyện cũ vanh vách. Chúa sai quan từ hàn làm bài tụng 16 chữ, để viên a bảo (viên quan trông nom việc nuôi nấng, dạy dỗ con cái của vua chúa) dạy truyền miệng cho vương tử. Vương tử chỉ nghe qua một lượt là đọc thuộc liền. Thấy vậy chúa càng quí vương tử Cán bội phần.

 

doc251 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 469 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tài liệu Văn học - Hoàng Lê nhất thông chí, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cho bọn Tuyển, Thái, và theo thứ bậc mà ban cấp tiền bạc cho các tướng sĩ.
Nhân việc này, triều thần lại kiến nghị tâu với vua thăng cho Chỉnh lên tước công một chữ (theo quan chế đời xưa, tước "một chữ" (nhất tự) là cao quý hơn tước có nhiều chữ. Ví dụ; Bằng công to hơn Bằng trung công), cho phép mở ra phủ quân Vũ thành, đúc con dấu Vũ thành và để Viện xu mật thống thuộc vào đấy. Chỉnh nhân dịp, liền tâu xin cho con trai là Hữu Du làm chức doanh tướng, coi lĩnh toán quân ấy.
Vua ưng cho.
Từ đó, những việc thuộc về quân sự, Chỉnh đều để cho Du điều khiển lấy. Chỉnh lại xây dựng một toà phủ ở phía đông chỗ ở của mình, nhà cửa rất mực lộng lẫy để cho Du ở, theo như lệ "thế tử ra ở phủ riêng" của chúa Trịnh ngày xưa. Bộ hạ của Chỉnh nhân đó cậy thế làm nhiều điều phi pháp. Bất cứ là nha môn nào hay việc gì, hễ đã thấy những giấy tờ đưa đến, có đóng dấu quân Vũ thành, là không ai dám trái lệnh. Vì thế, triều đình không còn kỷ cương gì cả, mà lòng người cũng sinh ra chia lìa. Người hiểu biết đều cho là thế nào cũng có loạn. Có người cáo bệnh bỏ quan, tìm chốn nhàn tĩnh ở nơi xó rừng, góc biển để tránh tai vạ.
Chỉnh cũng biết dư luận không ưa gì mình, muốn mượn con đường khoa mục, thu nhặt nhân tài, để mua chuộc lòng người làm chước yên lành về sau. Chỉnh bèn bàn với Lê Phiên tâu xin theo phép "kén học trò theo mười khoa" của Tư Mã Quang nhà Tống, đặc cách mở một chế khoa (Chế khoa là khoa thi do nhà vua tự ra đầu bài và tự chấm lấy văn. Nhưng đời sau, những khoa thi mở bất thường cũng đều gọi là chế khoa. - Đời Tống Triết-tông, Tư Mã Quang xin vua cho đặt mười khoa (10 điều) để làm tiêu chuẩn kén nho sĩ. Mười khoa đó đại để như sau: Có nết; có tiết tháo; có mưu trí và sức khoẻ; thông minh; ngay thẳng; thông kinh sử; học rộng biết nhiều, v.v...). Các quan văn từ tam phẩm trở lên đều phải tiến cử những người mình biết, rồi cho phép họ vào trong sân điện, đối đáp những câu văn sách của nhà vua hỏi. Khi ấy, các danh sĩ trong nước ai cũng trau dồi chữ nghĩa và đức hạnh để chờ đợi ơn trên. Cả những người làm quan rồi cũng đều hăng hái ứng cử. Bấy giờ là tháng giêng mùa xuân, năm đầu niên hiệu Chiêu-thống (1787).
Lúc đó có viên hiến phó là Ngô Tưởng Đào được cử vào khoa "hiền lương phương chính", dâng biểu cố từ như sau:
"Hiện nay, nhân sau khi sụp đổ, những việc đáng cảm đáng than trong nước, kể không thể xiết. Không phải chỉ có "một đau, hai khóc, ba thở dài" (nói theo lời của Giả Nghị trong bài nói về tình hình trị an đời Hán Văn-đế) mà thôi. Nếu không có tài hơn đời thì sao có thể xoay chuyển được thời thế. Nhưng những bậc kỳ tài, kỳ ngộ, phải đâu hết thảy đều do khoa cử mà ra. Đời nếu có người tài, bệ hạ nên dùng lễ mà mời ra như vua Thang mời Y Doãn ở đất Sằn, vua Văn vương thăm Lã Thượng ở sông Vị (Y Doãn là công thần đời nhà Thương, từng cày ruộng ở đất Sằn, vua Thang ba lần đến mời ông mới chịu ra giúp. - Lã Thượng tức Lã Vọng, công thần đời nhà Chu, từng câu cá ở bờ sông Vị, vua Văn vương đi săn bắt gặp, hết sức kính trọng, đón lên xe mời về triều làm quân sư), ngõ hầu mới mời được họ đến. Còn như thần đây lạm giữ một chức còn sợ chưa nổi, dám đâu làm nhơ đến việc long trọng này, để thương tổn đến sự sáng suốt trong việc cất nhắc nhân tài của thánh triều".
Lê Phiên nghe bài biểu ấy nói với Công Xán rằng:
- Ông ta bảo cần phải có người có tài lạ, là muốn nói nước giặc đang nhòm ngó ở bên ngoài, chẳng bao lâu sẽ có nạn binh đao. Mình bỏ việc ấy không lo, mà lại đi mở khoa thi kén học trò, để vờ làm ra vẻ thái bình. Sợ khi quân Nam trở lại, không biết dùng chước gì mà chống đỡ? Đó thật là cái lo trước mắt!
Năm ấy, những kẻ vào điện thi để đối đáp văn sách, có đến hai trăm người. Chỉnh muốn kén chọn cả loạt để thu nhặt danh sĩ trong nước. Nhưng đến khi xướng tên, thì hạng đúng tư cách thì đỗ chỉ có hai người là Trần Bá Lãm và Nguyễn Gia Cát mà thôi. Chỉnh có ý không bằng lòng, cho nên mùa đông năm ấy, Chỉnh lại xin thi hội ở lầu Ngũ phượng, lấy bọn Bùi Dương Lịch vào hạng tiến sĩ, tất cả mười lăm người. Nguyễn Khuê là người bà con của Chỉnh, đỗ vào thứ tư, dự luận trong ngoài có ý chê là tư vị.
Nhắc lại, khi Chỉnh ở Nghệ An về triều, được vua trọng dụng, các thân thần, cựu thần của nhà vua chẳng ai được ở trên Chỉnh. Vì vậy, Chỉnh làm việc gì cũng trôi chảy, không còn lúc nào nghĩ đến tình hình nước địch và công việc ở ngoài biên cương nữa.
Lúc ấy, những người ở ngoài đối địch với Chỉnh, thì phía tây có quận Thạc, phía đông có quận Nhưỡng, Chỉnh đều xem khinh. Mỗi khi chuyện trò với ai, Chỉnh vẫn thường nói:
- Nhưỡng tuy là dòng nhà tướng, nhưng là người thô lỗ, không thạo mưu cơ làm tướng. Xưa kia ở dưới cửa tiên công (chỉ quận Huy), y vẫn coi ta là bậc anh. Về sau vì sự gặp gỡ khác nhau, thành ra mỗi người một ngả. Chắc Nhưỡng không dám tranh giành với ta, mà ta cũng không nỡ đánh nhau với Nhưỡng, hãy để y ra ngoài đã. Đến như quận Thạc thì chỉ là người dũng mãnh, mà lúc gặp việc cần ứng biến thì lại không phải là giỏi. Vả nay y đã tuổi già sức yếu, nên cũng không đáng sợ nữa.
Vừa lúc ấy, có người thân của Chỉnh là Lệ Vũ ở Sơn Tây về, nói với Chỉnh rằng:
- Quận Thạc trước đi Hưng Hoá, chiêu dụ mấy viên quan Mường, mở lò đúc khí giới. Hiện nay đồ đảng ở bốn trấn có đến vài vạn, ông ta đang truyền hịch cho các thổ hào trấn Sơn Tây, hẹn ngày đem thủ hạ vào kinh. Nghe đâu ông ta có sai người đem tờ biểu bí mật dâng lên nhà vua, ông có biết không?
Chỉnh nói:
- Ta biết rồi. Trong tờ biểu, quận Thạc trình bày rằng: "Trước đã trái luật làm tan mất quân đội, sau vào bảo vệ kinh thành lại không nên công trạng gì, nhờ hoàng thượng có lòng bao dong, lại cho làm chức trấn thủ để cho bù lại tội xưa. Ngày nay có lòng luyến nhớ cửa khuyết, lại sợ ý ấy chưa được rõ ràng, kẻ không ưa sẽ được thế chỉ trích, đổ cho tiếng xấu, nên còn dùng dằng chưa dám tới ngay...". Hoàng thượng có đưa tờ biểu cho ta xem. Ta đã đoán ngầm được ý của Thạc, chắc y không dám dùng quân sự chống cự lại ta, mà chỉ muốn giảng hoà. Y ở ngoài lâu ngày, tình thế cách trở, đâm ra nghi hoặc, sợ hoàng thượng không tin dùng. Mà đột ngột về kinh, thì lại sợ có ta ở trong triều, chưa biết hoạ phúc thế nào, nên mới dâng trước tờ biểu ấy để dò xem ý tứ của triều đình đó thôi. Ta cũng muốn tâu xin hoàng thượng giáng chỉ triệu y, nhân tiện ta gửi cho y một lá thư, nhưng khó kiếm được người xứng đáng để sai đi. Người đã biết rõ tình hình thì nên theo sứ giả của nhà vua mang thư cùng đi.
Lệ Vũ xin vâng lời. Chỉnh bèn viết thư gửi cho quận Thạc, đại lược như sau:
"Trước đây tướng quân lên miền thượng du, xếp đặt công việc ngoài bờ cõi, trèo đèo vượt suối, thật là vất vả. Nếu tướng quân có ý chuyên giữ một phương để che chở cho miền tây, thì tôi xin đề đạt ý ấy lên nhà vua, cho phép tướng quân tuỳ ý mà làm. Nếu tướng quân cho rằng ở trong quân ngũ đã lâu, sức lực suy yếu, muốn nghỉ việc quân cơ, thì tôi dám đâu không giúp đỡ tướng quân chọn một địa vị tốt đẹp để cho tướng quân giữ trọn công danh, làm bậc túc tướng (vị tướng cũ đời trước còn lại) của tiên triều? Kẻ đại trượng phu ở đời chỉ có hai con đường là "hành" và "chỉ", cần phải sơm sớm chọn lấy một. Mong tướng quân tính liệu lấy".
Lúc mới nghe có mệnh lệnh nhà vua đòi, quận Thạc liền ra ngoài sân để bái nhận và hạ lệnh cho tướng tá kiểm điểm binh mã chờ ngày lên đường. Đến khi mở thư Chỉnh ra, quận Thạc bỗng nổi giận bảo Lệ Vũ:
- Mày là người riêng của Chỉnh phải không?
Sứ giả đỡ lời:
- Thư này Bằng công đã trình lên hoàng thượng xem; như vậy, người đưa thư tức là do hoàng thượng sai đi, không phải là người riêng.
Thạc nói:
- Tục ngữ có câu: "Bò con mới đẻ không biết sợ cọp". Chính là bảo hạng người như Nguyễn Hữu Chỉnh đây! Ta là con nhà võ biền, không biết văn hoa che đậy, việc gì cũng cứ thẳng băng mà làm. Điều gì không bằng lòng, chỉ biết có lưỡi gươm mà thôi. Này ta nói cho các ngươi nghe: Nguyễn Hữu Chỉnh trước thì phản bội nước nhà mà giúp Tây Sơn, sau lại ở hai lòng với Tây Sơn mà chiếm giữ đất Nghệ An. Đến khi Tây Sơn không nhìn nhận, người Nghệ An không dong, mới quay về với hoàng thượng. Các vị văn quan lại bị hắn lừa dối, để cho hắn có thể mượn mệnh lệnh của nhà vua, sai khiến người trong nước. Riêng có Dương Trọng Tế chống cự với hắn, nhưng vì không rõ nghĩa lớn, cho nên hắn có cớ mà nói. Quận Nhưỡng lại là bạn quen của hắn, thành ra chỉ bay lượn ở vùng Hàm Giang, không dám vượt lên một bước, tiến về kinh đô mà hỏi tội hắn. Hiện nay, riêng ta thề lấy việc đánh Chỉnh làm trách nhiệm của mình. Các ông hãy về bảo với Chỉnh rằng: hắn quen dùng thói gian trá, giảo quyệt để lừa dối người trong nước, nhưng lừa dối thế nào được ta đây. Ta nay vâng chỉ về triều hỏi tội hắn. Nếu hắn có thể đánh với ta, thì nên ra ngoài thành vài dặm để chọi nhau cho tiện, đừng để kinh động đến cung khuyết. Bằng không thì hắn nên ra chịu tội ở ngoài cửa Đại Hưng, đã có triều đình xử trí.
Rồi đó, quận Thạc tiễn sứ giả về kinh, lại viết tờ biểu "xuất sư" dâng lên nhà vua, đại lược nói:
"Trước đây, thần vâng mệnh ra trấn Sơn Tây, vừa lúc ấy Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An vào chầu. Bệ hạ cho là Chỉnh có công tôn phò, nên giao việc chính trị trong nước cho hắn. Đứa tiểu nhân đắc chí, dần dà mưu đồ làm việc không hay. Cứ như ý ngu của thần, thì Chỉnh không phải là người bề tôi thuần thục, mà là một đứa tự mưu lợi riêng. Xem việc hắn làm, giống như ma quỷ; xét bụng hắn nghĩ, độc hơn hùm beo. Cúi xin bệ hạ xét rõ, cho phép thần được trị hắn ngay từ lúc đầu, để hắn không thể rông rỡ làm ác về sau, thì thật là phúc cho xã tắc...".
Tiếp đó, quận Thạc đưa tờ hịch đến các lộ Quốc Oai, Quảng Oai, kể rõ tội ác của Chỉnh, gọi Chỉnh là tên giặc ở cạnh nhà vua, nguyền thế nào cũng giết Chỉnh để triều đình được trong sạch.
Chỉnh nghe tin quận Thạc đem quân đến nổi giận nói:
- Tên giặc già này thật đáng giết! Không muốn làm người công danh ở thế gian, lại muốn theo gót thằng Trọng Tế làm con ma phản nghịch ư?
Rồi Chỉnh vào tâu với vua, xin sai bộ tướng là Lê Duật đem quân đi đánh quận Thạc: còn tự mình đốc suất đội quân lớn theo sau tiếp ứng.
Duật đến làng Đại Phùng (thuộc huyện Đan Phượng, Hà Đông, nay thuộc Hà Nội) thì quân quận Thạc cũng vừa tới đó. Hai bên mới giao chiến được một trận thì quân Duật chống không nổi đã vứt bỏ khí giới mà chạy.
Con trai quận Thạc là Gia Vũ xin thừa thắng đuổi tràn, khiến hậu quân của Chỉnh kinh sợ, để có thể giữ được toàn thắng.
Quận Thạc không nghe và nói:
- Quân lệnh sớm nay đã truyền là đúng trưa họp ăn ở làng Đại Phùng. Các quân lính đang đói mệt, chờ đợi nghỉ ngơi ăn uống, thì quân giặc thình lình kéo đến; ta mới vẫy quân một cái mà đã đánh lui được chúng, bây giờ nên nhân đấy mà truyền cho quân lính ăn cơm là phải. Nếu lại khua cho họ tiến lên, chiều tối đến kinh thành, giặc tất nhiên dốc hết quân ra liều chết mà đánh, lúc đó quân ta vừa mệt vừa đói, lấy sức đâu mà chống? Binh pháp có nói: "Quân đi hàng trăm dặm để kiếm lợi, sẽ què thượng tướng"; đó là con đường nguy hiểm. Hãy cứ nghỉ quân mà ăn uống, ăn rồi thúc trống tiến lên, gặp giặc là đánh. Ăn no khí mạnh, lo gì không thắng địch? Vả lại, ta bắt Chỉnh như bắt trẻ con, có cần gì mà phải gấp vội để cho thất tín với quân lệnh.
Quận Thạc bèn truyền lệnh khua chiêng cho quân tạm nghỉ. Duật chạy đến nửa đường, ngoảnh lại trông biết là quận Thạc không đuổi; lại sợ Chỉnh đến sẽ bị quở phạt, liền thu quân, dàn thành trận, quay trở lại đánh quận Thạc. Quân của quận Thạc đang ngồi lên khí giới mà ăn, hàng ngũ lộn xộn chẳng đâu vào đâu. Thấy quân Duật ào đến, quân quận Thạc không kịp đánh lại, sợ hãi, tan vỡ, chạy tứ tung. Lúc ấy quận Thạc đang ngồi trên đình Đại Phùng, vội vàng trèo lên mình voi, thủ hạ chỉ còn vài chục người, xúm quanh thân voi, ra sức mà đánh. Quận Thạc ngồi trên bành voi, ném lao giết chết quân Duật chừng vài trăm người. Duật không dám lại gần. Chốc lát thấy Chỉnh đem đại quân kéo đến tiếp ứng, Duật liền vẫy quân vây quanh voi của quận Thạc, lấy giáo dài mà đâm. Quận Thạc co voi vào bãi cát, rồi xuống voi nhảy phốc lên ngựa, múa đao chém vung tàn tán, người ngựa qua lại như bay. Gia Vũ ở phía sau trận phi ngựa hô tới, xông lên phía trước, lăn xả vào đánh giết, làm bị thương quân địch rất nhiều. Một viên tỳ tướng của quận Thạc là Hoàng Đăng, tập hợp được vài trăm tên lính tản mát, cũng quay trở lại hợp sức mà đánh, Chỉnh trông thấy thế, sợ quận Thạc thoát thân được thì sẽ phi ngựa trốn mất, bèn vẫy quân Thiết đột vây kín bốn mặt, nhắm vào ngựa quận Thạc mà bắn. Ngựa què, quận Thạc bị Duật bắt sống. Gia Vũ, Hoàng Đăng liệu chừng không thể chống nổi, đều theo lối Thượng Hiệp (tên xã, thuộc Sơn Tây. (Cũng ở gần vùng Đan Phượng)) mà tháo lui.
Trận này, quận Thạc tự mình đốc suất các phiên thần Hưng Hoá, thổ mục Sơn Tây, lại hợp với quân của cả hai trấn, khí giới rất là sắc bén. Sau khi thua một trận, hết thảy đều bị thu bắt, không còn sót một tý gì. Do đó, oai danh của Chỉnh rung động khắp thiên hạ.
Tin thắng trận về đến kinh thành, các quan vào mừng. Vua Lê miễn cưỡng ra ngự triều, rồi nói riêng với Ngô Vi Quý rằng:
- Quận Thạc không phải là bề tôi bạo nghịch của trẫm. Quận Thạc còn sống thì tên gian hùng kia (chỉ Nguyễn Hữu Chỉnh) còn e sợ, nay chẳng may mà chết, trẫm rất thương xót, còn mừng nỗi gì?
Tiếp đó, Chỉnh rút quân về và giải quận Thạc vào kinh thành tâu xin đem chém.
Vua khuyên Chỉnh rằng:
- Quận Thạc trọng về phần nghĩa nhiều, mà ít hiểu về phần lý, cho nên danh với thực không xứng với nhau, hình tích khó mà rõ rệt. Nay thua trận bị bắt, phép vẫn nên chém. Nhưng nghĩ lại lúc Trọng Tế thả quân vây bức kinh thành, trẫm đứng chơ vơ một mình trong điện suýt nữa mắc phải tai biến bất trắc; nếu không có quận Thạc, làm gì có ngày nay? Theo như phép "Bát nghị" (theo sách Chu lễ, hình phạt có "Bát nghị" (tám phép bàn), chia ra tám loại người thân của vua, người có công, người có tài, người quý hiển v.v... để xét xử phân biệt khác nhau mà định cách giảm tội) Lòng trẫm thật không nỡ, nên bài lại để cho tỏ rõ cái ơn nghĩ đến công trạng hồi xưa.
Chỉnh đối với quận Thạc từ trước vốn không có hiềm thù gì, nay đánh một trận mà thắng, khí tức cũng đã hả, lại nghe lời vua khuyên dụ, bèn xin giao cho triều đình bàn lại.
Ngự sử là Ngô Trọng Khuê thảo lời nghị tội khác, trong có câu:
"Làm quan chống lại mệnh lệnh của triều đình, tội vẫn đáng chém; nhưng đem công mà bù với tội, thì sự chết cũng nên có lễ...".
Vua bèn sai đưa quận Thạc ra ngoài cửa Tây, cho uống thuốc độc.
Quận Thạc lạy hai lạy, rồi uống thuốc độc mà chết.
Lúc quận Thạc mới bị giải vào thành, nhân dân kinh đô xúm lại xem. Quận Thạc nói:
- Ta là tên tướng già Hoàng Phùng Cơ đây. Cha con một nhà đã có sáu người chết vì việc nước. Phải, trái đã có công luận. Thành, bại là bởi lòng trời. Ta không giết được Nguyễn Hữu Chỉnh, thế nào Tây Sơn cũng sẽ giết hắn. Đạo trời báo ứng không bao giờ sai; chỉ tiếc rằng ta không kịp trông thấy mà thôi.
Sau khi quận Thạc chết, thi hài được đem về chôn ở Sơn Tây, quân và dân ai cũng chảy nước mắt.
Lại nói, Nguyễn Hữu Chỉnh nắm hết quyền bính trong nước, việc gì cũng tự tay của y mà ra. Càng ngày y càng lộng hành, lòng người lìa tan, quan văn quan võ, ai cũng chán nản. Người nào theo lẽ công, giữ phép nước, đều bị bọn tướng sĩ cơ Vũ thành của Chỉnh quấy nhiễu. Người nào khảng khái dám nói thì nhiều khi bị chúng làm hại, tai hoạ xảy ra bất ngờ không sao mà lường được. Bởi thế, thường thường ai cũng kiêng nói. Cũng có người đã cáo bệnh, trả lại ấn tín, bỏ về nơi làng xóm.
Bọn hào mục gian ác ở đâu thì tụ họp ở đấy, rồi đi cướp bóc lẫn nhau. Ngoài thành vài dặm, đều là hang ổ của bọn trộm cướp.
Vua Lê lấy thế làm lo, bèn vời viên tham tụng cũ là Bùi Huy Bích vào triều để hỏi về việc thiên hạ. Bích sợ Chỉnh không dám nói gì, chỉ từ tạ mà rằng:
- Thần may được thi đỗ, nhưng không có tài giúp đời trị nước. Chúa Trịnh xưa cất nhắc thần làm việc trong chính phủ; lính kiêu dân oán, quân giặc lấn cướp, thần không có một chước gì để cứu vãn. Kinh thành bị hãm, chúa soái mắc nạn, cái tội làm lầm lỡ việc nước ấy, thần thật khó lòng mà trốn tránh. Nay nước nhà đã nhất thống, chính sự ban đầu đang sáng suốt, bệ hạ hãy nên tìm lấy những người tài giỏi khác. Còn như thần đây, thì dám đâu lại làm nhơ đến triều đình, để lỡ việc thiên hạ? Cúi xin bệ hạ cho thần được lui về nơi ruộng đồng, làng xóm.
Lúc lui ra, Bích bảo riêng với người thân tín rằng:
- Thiên hạ sắp loạn mất rồi! Từ đây ta cũng bỏ mà đi thôi.
Rồi đó, ông ta đem cả gia quyến dời sang xứ đông.
Viên đốc đồng trấn Nghệ An là Phạm Huy Khiêm cũng bỏ quan đi lên vùng thượng du huyện Thanh Chương mưu đồ việc khởi quân cần vương. Khiêm có đưa tờ hịch kể tội của Chỉnh, nhưng việc chưa thành thì đã chết (Huy Khiêm (có người đọc là Vĩ Khiêm, tức Phạm Nguyễn Du)).
Bấy giờ, trong bọn sĩ phu tại chức, lại có hạng người khác, nặng lòng công danh, lấy việc dẹp loạn, phò nguy làm trách nhiệm của mình. Họ tụ tập các người đồng chí, chiêu mộ quân lính nghĩa dũng. Hào kiệt bốn phương, khi nhận được chỉ thư, cũng theo lời hiệu triệu mà đến với họ. Những đám như vậy, khắp nơi đều có.
Viên đốc trấn Cao Bằng là Lưu Tiệp (có bản chép là Lưu Côn, Lưu Tiệp quê ở làng Nguyệt áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội) nhận tờ mật chỉ của chúa Trịnh. Còn viên đốc đồng là Nguyễn Hàn (Nguyễn Hàn quê ở xã Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội, Tiệp và Hàn đều đỗ tiến sĩ) lại nhận tờ mật chỉ của vua Lê. Cả hai đều khuyên dỗ bọn phiên mục ở trấn ấy giúp sức, rồi lại cấp phát phù tín, sắm sửa khí giới cho họ, và dặn họ sẵn sàng chờ lệnh đòi gọi. Lúc bấy giờ một trấn Cao Bằng, chia làm hai đảng. Kẻ theo tiết chế của viên đốc trấn, thì không biết có viên đốc đồng. Người theo ước thúc của viên đốc đồng, thì lại không biết có viên đốc trấn. Hai người ai ở dinh nấy, không chịu họp chung với nhau. Tiếng là đồng liêu với nhau, thật ra chỉ là thù địch.
Tiệp ngầm sai viên phiên thuộc của mình đem thủ hạ về trá hàng Nguyễn Hàn, rồi lại cho người tới cầu hoà để đòi lại viên phiên thuộc cùng bọn đầu hàng ấy. Hàn không biết là mẹo lừa, cứ nhận bọn đầu hàng mà cự lời xin của Tiệp. Tiệp liền đem quân vây đánh Hàn. Bọn trá hàng bấy giờ mới nổi lên làm nội ứng cho Tiệp, quân của Hàn tức thì rối loạn tan vỡ. Hàn hoảng sợ vội vàng bỏ chạy, bị giết chết liền. Vợ con của Hàn ở trong dinh cũng đều bị giết tất cả. Do đó, trấn Cao Bằng rối loạn lung tung. Bọn hào mục kẻ nào giữ ấp trại của kẻ nấy, rồi đem quân đánh giết lẫn nhau. Tiệp cũng không thể ngăn nổi.
Cùng lúc đó, Hà Quốc Ký ở Lạng Sơn, Triệu Văn Khương ở Thái Nguyên, Hoàng Văn Đồng ở Tuyên Quang, Đinh Văn Hồ ở Hưng Hoá và các tù trưởng ở vùng Phù Sương, Tây Lĩnh cũng đua theo, đâu đó đều chống lại mệnh lệnh của triều đình, quan lại ở trấn có người cũng bị chúng đuổi. Khắp trong bốn cõi không còn có chỗ nào yên tĩnh.
Thật là:
 Quạ cáo tranh nhau, không đáng ngại.
 Cọp, rồng đánh lộn, mới ghê thay!
Chưa biết đại thể ra sao? Hãy chờ hồi sau phân giải.
Hồi thứ chín
Tướng Tây Sơn Võ Văn Nhậm đem quân lấn ngoài bờ cõi
Quan bình chương Trần Công Xán vâng mệnh bàn việc biên cương.
Lại nói, khi ở Cao Bằng bắt đầu nhóm lên việc binh đao, Lưu Tiệp, Nguyễn Hàn đều có sai trạm đưa thư về kinh cáo biến. Tiệp bảo Hàn là phản nghịch, Hàn bảo Tiệp là phản nghịch, và cả hai đều nói "hiện đã điều quân vây đánh, chỉ khoảng mươi ngày sẽ bắt được kẻ có tội".
Quan Bình chương là Phan Lê Phiên thấy thư ấy, rất kinh hãi mà rằng:
- Hai người đều là bậc thanh cao trong hàng triều sĩ, ra ngoài gánh việc phiên trấn, đáng lẽ phải vì việc công mà quên việc riêng. Sao họ không chịu nén lòng theo nhau, lại đi cầm đầu cho cuộc quấy rối? Đồng loại làm hại nhau, đó cũng là một biến cố lớn! Đáng ghê! Đáng sợ!
Vừa lúc ấy, các viên trấn thủ ở bốn lộ Lạng, Thái, Tuyên, Hưng cũng đều lần lượt gửi thư hoả tốc về cáo biến.
Vua Lê bèn bàn với Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh thưa:
Các trấn đem quân đánh nhau, cũng là thói thường của bọn tù trưởng ở ngoài bờ cõi, chỉ cần hạ một bức thư, báo cho họ biết đường hoạ phúc, chắc họ sẽ nghe theo; dẹp yên việc ấy, không có gì khó. Riêng việc biến cố ở Cao Bằng thì lại do các viên quan trấn gây ra, bọn tù trưởng trên ấy đều không đáng trách. Cái tội tự tiện đánh nhau, giết nhau, triều đình sẽ phải có phân xử, vậy xin giao xuống cho các quan họp bàn.
Quan đồng bình chương Trương Đăn

File đính kèm:

  • docHoang Le Nhat Thong Chi_12829844.doc
Giáo án liên quan