Tài liệu Văn học - Đại thi hào Nguyễn Du

Nhận xét

Thơ chữ Hán Nguyễn Du cho thấy phần sâu kín trong tâm trạng ông. Nó như một thứ nhật ký, giãi bày mọi nỗi niềm, mọi ý nghĩ trong cảnh sống thường nhật của chính ông. Cả ba cuốn Thanh Hiên thi tập (viết trong khoảng 1785-1802, khi Nguyễn Du lánh ẩn ở quê vợ, Thái Bình, rồi trở về Hồng Lĩnh và ra lại Bắc Hà làm quan triều Gia Long) Nam trung tạp ngâm (1805-1812, khi Nguyễn Du làm quan ở Huế rồi cai bạ Quảng Bình) và Bắc hành tạp lục (1813-1814, thơ viết trên đường đi sứ Trung Hoa) đều có một giọng u trầm thấm thía, đầy cảm xúc nội tâm.

Thơ chữ Hán Nguyễn Du như một tiếng thở dài luận bàn nhân tâm thế sự và xót thương thân phận. Một hình ảnh trở đi trở lại là mái tóc bạc, Nguyễn Du có mái tóc bạc sớm, mái tóc như biểu tượng của lo nghĩ, của những nghiền ngẫm buồn thương và bế tắc

 

doc12 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 563 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu Văn học - Đại thi hào Nguyễn Du, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 mồ (Lê Chiêu Thống), còn vua phải chống thì lại anh hùng, bảo vệ độc lập dân tộc (Quang Trung). Đau đớn, bế tắc của Nguyễn Du là ở đấy. Biết mà không vượt qua được, ông mong được hậu thế cảm thông:
Bất tri tam bách dư niên hậu 
Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như 
Tạm dịch:
Ba trăm năm nữa nào biết được 
Thiên hạ ai người khóc Tố Như 
Tương truyền: "Khi ốm nặng, ông không uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ nói: đã lạnh rồi. Ông bảo: Được! Rồi mất. Không trối lại một lời."
Có một nỗi niềm đến phút cuối Nguyễn Du vẫn phải nén lại và mang đi. Buồn thương, cô đơn đã thành thuộc tính của đời ông như màu xanh là thuộc tính của cỏ:
Nhân tự bi thê, thảo tự thanh 
Tạm dịch:
Người tự buồn thương, cỏ tự xanh 
Hiện thực cuộc sống bi thương trong xã hội phong kiến cả ở nước ta lẫn ở Trung Hoa thuở ấy, từ cảnh ngộ dâu bể của cô Cầm đánh đàn ở Thăng Long đến nỗi cơ cực của ông già hát rong ở đất Thái Bình (Trung Quốc) đã cho Nguyễn Du thấy thân phận bèo bọt và những bất công mà kiếp người phải chịu. Từ chính cảnh ngộ của mình ông thông cảm sâu sắc, tạo nên tình cảm thấm thía cho những bài thơ thương đời. Thương đời và thương mình đều da diết như nhau.
Nguyễn Du hay nói tới thân phận tha hương, lưu lạc. Nỗi nhớ quê nhà luôn luôn bàng bạc trong các bài thơ. Ông thấy tài năng văn chương như con chim phượng nhốt trong lồng nát và công danh thì cùng đường như con rắn đã chui trong hang.
Bình sinh văn thái tàn lung phượng 
Phù thế công danh tẩu hác xà 
Ông viết bài thơ chống lại bài Chiêu hồn Khuất Nguyên của Tống Ngọc (bài Phản chiêu hồn), ông xui Khuất Nguyên đừng về vì thành quách vẫn còn nguyên mà người đã đổi khác, bụi bặm cuồn cuộn làm nhơ nhớp cả quần áo. Ông khái quát: Đời bây giờ người người đều đều là Thượng Quan (Thượng Quan là kẻ gièm pha làm hại Khuất Nguyên) và mặt đất thì chỗ nào cũng là sông Mịch La (con sông Khuất Nguyên trẫm mình).
Ở các bài vịnh nhân vật và luận về các sự kiện lịch sử Trung Hoa trong Bắc hành tạp lục, Nguyễn Du đã xuất phát từ quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con người để cân đo lại trọng lượng các vĩ nhân và các chiến công ầm ỹ một thời.
Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du, chúng ta hiểu cội nguồn chủ nghĩa nhân đạo của ông thể hiện trong Truyện Kiều và những ký thác đời ông vào hình tượng Kiều, nhân vật sắc tài mà bạc mệnh.
__________________
Góp một cách nhìn về Nguyễn Du và 'Truyện Kiều' 
Nguyễn Sĩ Đại 
Trong hội thảo khoa học về Nguyễn Du tháng 12/2005 vừa qua, nhiều ý kiến khẳng định rằng, trong thời đại ngày nay, Nguyễn Du và Truyện Kiều mới được tôn vinh xứng đáng với giá trị của nó. Ý kiến đó có hoàn toàn chính xác? 
Nguyễn Du là một thiên tài. Thiên tài được hình thành không chỉ từ học vấn, từ bối cảnh xã hội cụ thể nào mà còn có yếu tố từ vũ trụ, từ một khoảnh khắc nào đó mà thôi... Truyện Kiều là một kiệt tác. Là kiệt tác, nó luôn ẩn chứa những thông tin vĩnh cửu. Không thể lấy thước đo của một thời mà đo chiều kích của thiên tài và kiệt tác. Nhưng mỗi thời, đánh giá và khai thác di sản quá khứ một cách khác nhau, âu cũng là lẽ thường tình. Với những kiệt tác, với những nhân vật kiệt xuất trong lịch sử, theo tôi, không nên tìm những “nhược điểm” theo cách nhìn của mình mà nên đi hết tầm xa, tầm rộng của họ. 
1. Truyện Kiều là truyện tình năm Gia Tĩnh triều Minh hay truyện thế sự, truyện về thân phận con người của muôn đời? 
Tôi được nghe cha tôi giảng Kiều từ nhỏ. Ấy là vì mẹ tôi mê Kiều đến nỗi, dù đã thuộc lòng, đêm nào cũng bắt cha tôi giảng giải kỹ từng đoạn. Có lần, hai người tranh luận sôi nổi quá, cha tôi quờ tay làm rơi cái đèn chai. Mảnh thủy tinh vỡ còn để sẹo ở tôi đến bây giờ. Thế nhưng ngay cả khi học xong đại học, tôi không bao giờ chú ý thấu đáo cái đoạn mở đầu của Truyện Kiều. Đến bây giờ, tôi thấy không hiểu cái đoạn “đơn giản” như một lời dẫn chuyện ấy thì không thể hiểu hết Truyện Kiều và Nguyễn Du. 
Đoạn mở đầu ấy là: 
Trăm năm trong cõi người ta, 
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. 
Trải qua một cuộc bể dâu, 
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. 
Lạ gì bỉ sắc tư phong, 
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. 
“Trăm năm” là thời gian, là khoảng sống của một đời người và cũng là từng trăm năm kiếp người một. “Cõi người ta” là không gian. Tóm lại, câu ấy gồm cả vũ trụ, là sự vĩnh cửu trong cõi người. Chữ “Tài” là tài năng, là cái vốn có, là khát vọng của con người cá nhân. “Mệnh” là điều kiện khách quan, mà khách quan thì có đáp ứng, có hạn chế. Đối với bậc tài hoa thì sự hạn chế ấy là phũ phàng vì nó vượt qua tầm thời đại, nó là sự bù lại “lộc trời” đã ban cho quá lớn. Trải qua một cuộc bể dâu - Những điều trông thấy mà đau đớn lòng là thế sự, là toàn bộ chuyện đời. Truyện Kiều do đó không phải là chuyện tình, mà là một “tiểu thuyết” luận đề. Vấn đề ở đây là quan hệ con người cá nhân với xã hội. Và cách giải quyết của Nguyễn Du là Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Có người cho rằng, để giải quyết nỗi khổ của con người, phải có một cuộc cách mạng triệt để. Nhưng thực tế, nỗi khổ và oan khuất của con người có bao giờ hết? Trong trăm năm cõi người, lấy chữ “tâm” để ứng xử, không chỉ là ảnh hưởng của đạo Phật mà là một triết lý sâu xa, là tinh hoa những tư tưởng mà Nguyễn Du tiếp thu được cộng với sự trải nghiệm của ông trong quãng đời ngắn ngủi của mình chứng kiến sự sụp đổ của nhiều triều đại, sự tạm bợ của nhiều điều, kể cả chính cả bản thân sự sống. Có người nói Nguyễn Du ảnh hưởng của giáo lý này, giáo lý khác. Không, ông đã đứng được ở bờ vĩnh cửu, đã không chỉ nói quan hệ xã hội của con người mà còn nói tới quan hệ của cõi sống với những cõi khác huyền diệu. 
2. Vì sao Nguyễn Du lại chọn Thúy Kiều, một phụ nữ tài sắc thuộc tầng lớp trung lưu, làm nhân vật chính? 
Không lấy nhân vật chính là người lao động bình thường không phải là hạn chế của Nguyễn Du theo quan điểm giai cấp mà là chỉ với sự lựa chọn ấy, Nguyễn Du mới có thể dẫn Thúy Kiều và chúng ta tới mọi cảnh ngộ của đời sống, mọi cung bậc của tình cảm. Theo tôi, đó là một lựa chọn thiên tài. 
3. Vì sao Nguyễn Du lại lựa chọn một câu chuyện Trung Hoa? 
Đây lại là một lựa chọn thiên tài nữa. Nó làm cho tác phẩm mang tính phổ quát. Thứ nữa, trong các xã hội, nhất là trong xã hội phong kiến, có những án văn tự dẫn đến việc đốt sách và mang họa tru di. Nguyễn Du là người biết rất rõ điều đó. Có một câu về Từ Hải thôi mà Tự Đức nói, nếu Nguyễn Du còn sống thì phải nọc ra đánh. Vậy viết một chuyện cụ thể Việt Nam, liên quan đến một dòng họ cầm quyền nào đó với sức tố cáo lớn như vậy, liệu Truyện Kiều có còn đến ngày nay? 
Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như? - Đó là câu thơ trong bài Độc Tiểu Thanh ký. Nàng Tiểu Thanh là người tài sắc, sống vào thời nhà Minh, bị vợ cả ghen giam lỏng trên núi đến buồn mà chết. Nguyễn Du đọc được một bài thơ còn sót lại sau khi bị đốt của nàng, cảm kích mà làm bài này. Bài thơ được ông Vũ Tam Tập dịch là: 
Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang 
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn 
Son phấn có thần chôn vẫn hận 
Văn chương không mệnh đốt còn vương 
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi 
Cái án phong lưu khách tự mang 
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Tôi không dám không hiểu như các cụ túc nho đã dịch và lâu nay mọi người vẫn hiểu. Nhưng tôi cũng có một băn khoăn. Vì sao lại là ba trăm năm? Có thuyết cho rằng Tiểu Thanh sống cách Nguyễn Du ba trăm năm. Nhưng các cụ cũng nói rõ, đấy chỉ là giả thuyết, còn ý của Nguyễn Du thật như thế nào thì cũng chưa biết. “Tam bách dư niên” phải chăng là một con số ước lệ, chỉ một vòng triều đại, một cuộc biến thiên lớn của lịch sử? Quả là Nguyễn Du có hay nói về già bệnh, về cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân nhưng ngay cả đến lúc chết, ông cũng chỉ nói “Được” rất thanh thản. Ông có cần, có mong muốn người đời sau khóc thương mình hay không? Nếu nghi vấn ấy có lý thì câu thơ sẽ phải được hiểu khác, sẽ mang một trường nghĩa rộng hơn. Giả sử, Nguyễn Du đặt câu hỏi, ba trăm năm sau còn người ở vào chỗ phong vận kỳ oan như Nguyễn Du mà đồng bệnh tương liên? 
Và cuối cùng, tôi nghĩ rằng, tình cảm chính của chúng ta hôm nay và hậu thế cũng không phải là khóc thương ông, mà muôn vàn khâm phục, biết ơn những di sản tinh thần vô giá mà ông đã sáng tạo nên. Dẫu trong Truyện Kiều có bao nhiêu oan khuất thì sáng lên nhất vẫn là mối tình nồng thắm, đẹp đẽ của Kim - Kiều trong những ngày xuân. Nó làm sáng lên ước vọng yêu đời của không biết bao nhiêu thế hệ, nó hướng con người tới những vì sao của tình yêu và hạnh phúc.
Đánh giá về Truyện Kiều theo dòng lịch sử 
Trong lời tựa của bản Kiều đem in năm 1820, Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân viết: “Ta lúc nhàn đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh như hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải con mắt trông cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy”. 
Vua quan thời Minh Mệnh, Tự Đức đều rất mê Kiều. Tự Đức muốn nọc Nguyễn Du ra đánh một trăm roi vì câu Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai. Nhưng cũng Tự Đức: Mê gì? Mê đánh tổ tôm, Mê ngựa Hậu bổ, mê Nôm Thúy Kiều. 
Tuy nhiên, có một luồng khác coi Truyện Kiều là một dâm thư: Đàn ông chớ kể Phan Trần, Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều. 
Phạm Quỳnh trong bài diễn văn đọc tại Hội Khai trí tiến đức năm 1924 tại Hà Nội: “Truyện Kiều không chỉ đối với văn hóa nước nhà mà đối với văn học thế giới cũng chiếm được một địa vị cao quý... Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn...”. 
Để chống lại quan điểm này, quan điểm mà các nhà cách mạng cho nhằm để “ru ngủ” thanh niên, chí sĩ Ngô Đức Kế trong bài Luận về chánh học cùng tà thuyết, Quốc văn, Kim Vân Kiều, Nguyễn Du cùng năm đó viết trên tạp chí Hữu Thanh: “Văn tuy hay mà truyện là truyện phong tình, thì có vẻ ai dâm sầu oán, đạo dục tăng bi... Các gã thiếu niên chí khí chưa định, tình dục đang nồng, xem truyện thì mê, rồi sinh cái tư tưởng trộm ngọc cắp hương, khêu hoa ghẹo nguyệt, say đắm trong trời tình bể ái mà mềm nhũn cái gan lòng sắt đá, bỏ mất cái chí nguyện cao xa...”. 
Sau cách mạng, chỉ có bài của Ngô Đức Kế chứ không có bài của Phạm Quỳnh được dạy trong nhà trường. Một giáo trình đại học còn viết: Âm mưu của Phạm Quỳnh là ở chỗ này: “Truyện Kiều còn... nước ta còn”, như thế thì yêu nước chỉ lao đầu vào nghiên cứu Truyện Kiều chứ cần gì phải đấu tranh chống Pháp! 
Bên cạnh sự ngợi khen và tôn vinh, học tập và nghiên cứu nhiều nhất từ trước tới nay, nửa thế kỷ qua vẫn còn nhiều lời phê phán đối với Truyện Kiều và tác giả của nó. 
Trong bài Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Hoài Thanh viết: “Nguyễn Du đã cảm thông được một phần nỗi khổ chung của con người bị chà đạp dưới một chế độ ngày càng thêm mục nát. Cố nhiên cũng chỉ cảm thông được một phần thôi. Rốt cuộc, Nguyễn Du vẫn là người của giai cấp phong kiến, của chế độ phong kiến”. 
Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai trong khi đề cao Truyện Kiều là tác phẩm ưu tú nhất, cũng viết: “Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du cố nhiên mới chỉ biểu hiện bằng những phương thức yếu ớt theo đạo lý chữ nhân của đạo Khổng hoặc theo tinh thần hiếu sinh của đạo Phật, chưa phải là chiến đấu tính cho nhân đạo, cho con người... Trong Truyện Kiều, tính chiến đấu chưa phải là tích cực và đúng với lập trường; mâu thuẫn chỉ giải quyết theo tinh thần thỏa hiệp với chế độ, tinh thần khuất phục với mệnh trời” (Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung Truyện Kiều).
__________________
Nguyễn Du dưới góc nhìn lịch sử 
Hà Quảng 
Hồn vẫn đi về, cảo thơm sực nức...
Nguyễn Du tên tự là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh năm 1765 và mất năm 1820. Quê ông gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long. Ông thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt, cha là Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm đậu nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ, phong tước Xuân quận công (tể tướng dưới triều Lê); mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm), con gái quan Câu kê họ Trần ở làng Hoa Thiền huyện Đông Ngạn xứ Kinh Bắc (nay là tỉnh Bắc Ninh). 
Câu ca dao “Bao giờ ngàn Hống hết cây, sông Rum hết nước họ này hết quan” là chỉ cái việc làm quan của họ Nguyễn Tiên Điền vậy. 
Anh đầu Nguyễn Du là Nguyễn Khản đậu đồng tiến sĩ, làm quan đến chức Tham tụng, cùng ở một triều với thân phụ. Anh thứ hai là Nguyễn Điều trúng tam trường thi Hội, làm quan đến chức Trấn thủ Hưng hoá, phong tước Điền Nhạc hầu. Anh thứ ba là Nguyễn Dao trúng tứ trường thi Hương, chịu chức Hồng lô Tự thừa. Anh thứ tư là Nguyễn Luyện trúng tam trường thi Hương. Anh thứ năm là Nguyễn Trước trúng tứ trường thi Hương. Anh thứ sáu là Nguyễn Nễ trúng tứ trường thi Hương, một nhà đều là khoa giáp xuất thân, cùng làm quan ở triều Lê cả. 
Dòng họ Nguyễn Du không những nổi tiếng về khoa hoạn mà lại còn chiếm nhiều danh tiếng trong lĩnh vực văn chương. Nguyễn Nghiễm còn để lại những tập Quân Trung liên vịnh, Xuân đình tạp vịnh, và quyển Việt sử bị lâm cung cùng nhiều tác phẩm chữ Nôm, từng làm bài phú Khổng tử mộng Chu công, nay còn truyền tụng. Nguyễn Nễ còn để lại Quê hiên giáp ất tập và Hoà trình hậu tập cũng sở trường về văn Nôm. Cháu Nguyễn Du là Nguyễn Thiện có tập thơ Đông phú và Nguyễn Đạm có tập thơ Quan hải, tập thơ Minh quyên đều là những văn hào đương thời. Danh sĩ trong nước bấy giờ truyền có năm người lỗi lạc, người đời gọi là “An Nam ngũ tuyệt” thì họ Nguyễn Tiên Điền có đến hai người là Nguyễn Du và Nguyễn Đạm rồi. 
Dòng họ này lại còn được người đời nể trọng về lòng trung nghĩa. Tổ tiên thuở xưa theo Mạc thì nhiều người tuẫn tiết khi nhà Mạc mất. Thời Lê, sau khi Lê mất, mấy anh em Nguyễn Khản, Nguyễn Điêu, Nguyễn Luyện, Nguyễn Du cho đến cháu là Nguyễn Đạm đều khởi nghĩa cần vương. Triều Tây Sơn sang đời Nguyễn nhiều người không chịu ra làm quan, kiên trinh giữ tiết với chúa cũ. 
Trong thiên tài của Nguyễn Du, ông đã thừa hưởng được cái tính dịu dàng, nhã nhặn và phong lưu của xứ Kinh Bắc nhờ ảnh hưởng của mẹ, đã hưởng được hào khí của đất Hồng Lam, hùng tâm của người xứ Nghệ, cùng là lòng tiết nghĩa, khiếu văn chương, do gia phong truyền xuống trải bao nhiêu đời nhờ ảnh hưởng của cha. 
Lúc mười tuổi Nguyễn Du mồ côi cha, lúc mười ba tuổi mồ côi mẹ, thời niên thiếu ở với bác tại Thăng Long, dấu vết đài các hoa lệ của kinh đô để lại nhiều dấu vết trong ký ức Nguyễn. Nhưng bao nhiêu yếu tố kể đó cũng chưa đủ tạo thành cái tính cách phức tạp và mâu thuẫn của ông, nếu ta không kể đến những ngày tháng loạn ly ông phải sống điền dã nơi hang cùng xóm vắng, trong sự thiếu thốn, lạnh rét như những người loạn dân thời bấy giờ.
Sinh ra trong một gia đình quan lại, có truyền thống văn học, năng khiếu thơ văn của Nguyễn Du sớm có điều kiện nảy nở và phát triển. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh đĩnh ngộ. Năm 1783, Nguyễn Du thi hương đậu Tam Trường. Vì lẽ gì không rõ, ông không tiếp tục thi lên nữa. Phải chăng những năm niên thiếu của Nguyễn là những năm đầy biến động. Ở Bắc giặc giã nổi lên tứ tung vì tệ tham nhũng, bè phái của các chúa Trịnh Giang, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm.
Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương chưa tan, thì Hoàng Công Chất nổi lên từ năm 1739 cướp phá ở miền Hưng Hoá và Thanh Hoá, bọn Lê Duy Mật nổi lên từ năm 1738 đóng giữ miền Trấn Ninh, thường xuống đánh phá đất Nghệ Tĩnh. Các cuộc khởi nghĩa mới dẹp yên thì năm 1774, lại nổ ra cuộc đánh Nguyễn ở miền Nam, thân phụ ông phải cùng đi đánh với Việp công làm Hiệp tán quân cơ. Trong khi quân Bắc đương chiếm cứ Thuận Hoá để cầm cự với quân Tây Sơn thì Thăng Long lại xảy ra nạn Kiêu binh. Năm 1882, loạn quân giết Hoàng Đình Bảo, phá nhà quan Tham tụng Nguyễn Khản là anh cả Nguyễn Du và nhà quan Quyền phủ sự Dương Phương, cùng là giết quan Thủ hiệu Nguyễn Triêm ngay trước phủ chúa. 
Bấy giờ Nguyễn Khản và Nguyễn Điều là hai anh của Nguyễn Du chạy lên Tây Sơn để gọi quân các trấn về trừ Kiêu binh mà không xong. Trong khi ấy thì quân Tây Sơn đã đánh được Phú Xuân, thừa thắng kéo luôn ra Bắc, chúa Trịnh Khải thất thế phải chạy trốn rồi tự tử. Sau khi Bắc Bình Vương tôn vua Lê rồi rút quân về Nam, thế lực họ Trịnh lại do tay Trịnh Bồng khôi phục. Nguyễn Hữu Chỉnh cậy uy Tây Sơn diệt Trịnh, rồi vì chuyên quyền ở Bắc, Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra giết, đến khi Nhậm theo vết xe cũ của Chỉnh lại tự mình ra giết. Vua Lê cầu cứu với Trung Hoa, Bắc Bình Vương bèn bỏ Lê mà xưng đế trước khi đánh tan quân Tôn Sĩ Nghị. Bọn tôi cũ nhà Lê, một số thì chạy theo vua Chiêu Thống sang Tàu để lo khôi phục, một số thì vì danh lợi hoặc vì thế bức phải quy phục nhà Tây Sơn, số nữa thì lẻn lút ở nhà quê mà nuôi chí khí để chờ cơ hội. 
Nguyễn Du lúc bấy giờ nhân tập chức của cha nuôi, đương làm Chánh thủ hiệu, một chức quan võ ở Thái Nguyên, nghe tin vua Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu (năm Kỷ Dậu -1789) toan theo ngự giá nhưng không kịp bèn về quê vợ ở làng Hải An huyện Quỳnh Côi xứ Sơn Nam (bây giờ là tỉnh Thái Bình). Ông cùng anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn tập hợp hào mục mưu đồ khôi phục nhà Lê, nhưng chung quy thất bại bèn phải về quê nhà ở Tiên Điền, một thời gian toan kiếm đường vào Gia Định giúp chúa Nguyễn Anh, nhưng việc tiết lộ, ông bị trấn tướng của Tây Sơn là Thận Quận Công bắt giam. May Thận Quận Công quen biết với anh ruột ông là Nguyễn Nể lại mến tài ông nên chỉ giam vài tháng rồi tha. Bấy giờ ông tự thấy mình không làm được người nghĩa sĩ đem thân hy sinh cho chúa đành làm kẻ bình dân giữ trọn tiết trung trinh. Ngày tháng ông lấy sơn thuỷ làm vui hoặc đi săn muông, hoặc đi câu cá, tuỳ hứng ngâm vịnh để khuây khoả, biệt danh Hồng Sơn lạp hộ và Nam Hải điếu đồ có là vậy. 
Khi thời thế xoay đổi, nhà Tây Sơn thất bại, Nguyễn Ánh thống nhất được Bắc Nam. Tháng sáu năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long sau khi khôi phục Phú Xuân ra Bắc xuống chiếu triệu tập những người dòng dõi cựu thần nhà Lê, Nguyễn Du cũng bị triệu ở trong số ấy. Ông dẫu biết nhà Lê không thể nào vãn hồi được nữa mà thiên hạ đã về theo nhà Nguyễn rồi, nhưng do lòng trung quân, ông quyết từ chối, không chịu ra làm quan cho nhà Nguyễn.
Năm 1820, Nguyễn Ánh lật đổ nhà Tây Sơn Nguyễn Quang Toản, lại mời Nguyễn Du ra làm quan; ông từ mãi mà không được nên miễn cưỡng tuân mệnh. Tháng tám năm đầu hiệu Gia Long (1802), ông được bổ tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam (bây giờ là Hưng Yên). Tháng 11 năm ấy, ông được thăng Tri phủ Thường Tín. 
Mùa thu năm Gia Long thứ ba, ông cáo bệnh về quê, được hơn một tháng thì bị triệu về Kinh. Tháng giêng năm sau được thăng hàm Đông Các Học Sĩ và phong tước Du Đức Hầu. Tháng tư năm Gia Long thứ tám, ông được bổ chức Cai bạ dinh Quảng Bình. Tháng chín năm thứ mười một, ông lại xin nghỉ về quê, đến tháng chạp lại bị triệu về Kinh, rồi tháng giêng năm sau thăng hàm Cần chánh điện Học sĩ, và được cử làm Chánh sứ đi tuế cống Thanh triều. Tháng tư năm thứ mười ba trở về nước, được nghỉ sáu tháng ở quê, rồi năm sau ông được thăng chức Lễ bộ Hữu Tham tri. Năm đầu triều Minh Mạng (1820) vua Thánh tổ mới lên ngôi, ngự bút đặc phái ông làm Chánh sứ sang Trung Quốc cầu phong. Ông chưa kịp đi thì cảm bệnh mất tại Kinh ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn, tức ngày 16/9/1820 hưởng thọ 56 tuổi. 
Đường công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn chẳng có mấy trở ngại. Ông thăng chức nhanh và giữ chức trọng, song chẳng mấy khi vui, thường u uất bất đắc chí.
Nguyễn Du sinh trưởng ở thời loạn lạc, lại gặp cảnh nước mất nhà tan mà mình không thể nào vãn hồi được thời thế, đành phải ôm mối hận lòng. Nguyễn không thể vui lòng nhận bổng lộc của triều đình mới. Sách Đại Nam Chính biên liệt truyện chép rằng ông làm quan hay bị người trên đè nén, không được thoả chí, cho nên thường buồn rầu luôn1. Đối với vua thì mỗi khi yết kiến ra vẻ sợ sệt, nhưng không biết nói năng gì. Có khi vua đã trách rằng: “Nhà nước dùng người, cứ kẻ hiền tài là dùng, chứ không phân biệt Nam Bắc. Ngươi với Ngô Vị, đã được ơn tri ngộ làm quan đến bực Á Khanh, biết việc gì thì phải nói để hết chức trách của mình, sao lại cứ rụt rè sợ hãi, chỉ vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện thôi!”. Thực ra, Nguyễn Du không phải là người buồn vì quan trên đè nén, không phải là người sợ hãi rụt rè, mà chỉ là người dẫu ở tân triều mà lòng khôn quên chúa cũ. Nhưng tâm sự ấy khó ngỏ cùng

File đính kèm:

  • docDai thi hao Nguyen Du_12714958.doc
Giáo án liên quan