Sáng kiến kinh nghiệm Rèn đọc cho học sinh lớp 1

*Phần học vần

 Sang giai đoạn học vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm quen với các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng.

Để giúp trẻ học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen:nhận diện, phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững.

VD: Học vần ay :

 1/ Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần ay : vần ay gồm 2 âm: âm a và âm y đứng sau

 Vị trí âm trong vần: âm a đứng trước, âm y đứng sau.

 

doc15 trang | Chia sẻ: dungnc89 | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Rèn đọc cho học sinh lớp 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hỏi, giảng dạy.
 - Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức thao giảng, dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy.
- Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có nhiều
 kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng như hạnh kiểm.
* Học sinh:
 - Ở độ 6 -7 tuổi của học sinh lớp 1.Các em đa số còn rất ngoan, dễ vâng lời, 
nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng vv.
- Có được sự quan tâm về việc học tập của con em mình của một số phụ huynh có ý thức trách nhiệm không khoán trắng cho nhà trường cho giáo viên, và cùng với giáo viên trong việc học tập của con em mình như: Chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập,thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà.
2/ Khó khăn:
 Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp một số khó khăn sau:
* Giáo viên:
 - Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên còn tự làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất thời gian đầu tư.
* Học sinh:
 - Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn	
 so với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến.
 - Do đặc trưng vùng miền nên các em chủ yếu phát âm sai l / n ; r/d ; ch/tr . ..
 - Đa số phụ huynh trong lớp là làm nông nghiệp , chưa quan tâm đúng mứcđến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để kèm cặp con em mình học bài, đọc bài ở nhà.
II/ CƠ SỞ LÝ LUẬN 
1, Cơ sở tâm lí học :
 - Đi học lớp 1 là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ .Từ đây hoạt động chủ đạo của trẻ , hoạt động vui chơi , ở giai đoạn mẫu giáo chuyển sang một loại hoạt động mới , hoạt động học tập với đầy đủ ý nghĩa của từ này .Các em trở thành những ‘’cậu học sinh ‘’, những ‘’cô học sinh ‘’, có một ‘’địa vị ‘’mới trong gia đình và ngoài xã hội .Sự chuyển đổi hoạt động chủ đạo này có tác động lớn đến tâm lý của trẻ .Những hiểu biết về về tâm sinh lý của trẻ lớp 1 đã hình thành khả năng tư duy bằng tín hiệu , là những tín hiệu thay thế ngữ âm .Ở độ 6-7 tuổi khả năng phân tích , tổng hợp ở trẻ khá hoàn chỉnh , từ đây các em có khả năng tập tách từ thành tiếng , thành âm và chữ .
2, Cơ sở ngôn ngữ học của việc rèn kỹ năng đọc .
 - Kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một rất quan trọng, đó cũng là sự phản hồi của
 kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết quả nhận biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng, và khả năng đọc từ, đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một bài thơ ngắn vv 
- Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc câu
 còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ hiểu được ý của tiếng, từ, câu , bài mà các em viết.
3, Cơ sở nghiên cứu
 	Tôi thường nghiên cứu các giáo trình Phương Pháp Dạy Học Tiếng Việt 1. Các tài liệu liên quan: Sách Giáo Viên, Sách Giáo Khoa lớp 1, Các Tham Luận dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Một.Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1 . Các ấn phẩm: để học tốt, dạy tốt môn tiếng việt lớp Một . Phần mềm dạy học Tiếng Việt 1 . Sách báo , Các loại sách tham khảo, bổ trợ Tiếng Việt lớp 1 . . .
III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 
Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng những biện pháp sau:
1. Nắm bắt thực trạng, tình hình học sinh qua khảo sát điều tra kiến thức đầu năm.
 - Tìm hiểu để biết rõ số học sinh trong lớp đi học Mẫu Giáo và số học sinh
 Không đi học Mẫu Giáo, hoặc đi học không đều. Tìm hiểu nguyên nhân, lý do vì sao học sinh đó không đi học Mẫu Giáo.
 - Kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái các em đã học ở Mẫu Giáo và kết quả
 điều tra năm thu được như sau:
Tình hình học sinh: lớp 1A sĩ số : 35 học sinh
 Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái:
 * Học sinh không biết chữ cái nào : 4 em
 * Biết 6 – 10 chữ cái : 10 em
 * Nhận biết hết bảng chữ cái : 13 em
 * Nhận biết âm hai chữ cái : 8 em
 Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái còn thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao.
 Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi và các em sẽ thích học. Nhận thức rõ được các khó khăn cơ bản về học sinh tôi đã có những biện pháp cụ thể sau :
2. Biện pháp
* Biệp pháp tác động giáo dục
- Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học.
- Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà của
con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, cách phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà.
- Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy 
học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình vật thật để tiết dạy vui, sinh động. Đồng thời tăng cường vận dụng Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học , qua những hình ảnh động cũng góp phần gây hứng thú giúp các em hưng phấn trong luyện đọc .
- Xây dựng đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau.
- Giáo viên có thể cho học sinh học yếu, đọc yếu để ngồi gần với nột học sinh
 đọc giỏi. Bạn giỏi sẽ giúp bạn yếu khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh vần, đọc tiếng và giúp bạn trong thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng.
- Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm
 giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu.Đối với các học sinh trung bình yếu. Các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 24 chữ cái đơn giản, giáo viên nên dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 24 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản.
*Phần học các nét cơ bản:
Giáo viên nên dạy thật kỹ, thật tỷ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh.Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.
VD: Các nét chữ cơ bản và tên gọi:
 Nét sổ thẳng
 Nét ngang
Nhóm 1: Nét xiên \ Nét xiên phải 
 	 / Nét xiên trái
Nhóm 2: Nét móc 	 Nét móc trên
	 Nét móc dưới
	 Nét móc hai đầu
Nhóm 3: Nét cong Nét cong hở phải
	 Nét cong hở trái 
 Nét cong kín
Nhóm 4: Nét khuyết	 Nét khuyết trên
	 Nét khuyết dưới
	 Nét thắt
* Phần học âm:
Sau khi cho học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái.
Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới có thể ghép các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu. 
Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in khác nhau hay gặp trong sách báo như chữ a, chữ g thi tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó cũng là chữ a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách báo trẻ dễ hiểu, dễ đọc không bị lúng túng.
VD: 
 * Âm a gồm 2 nét: Nét cong kín nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải.
 a cũng có 2 nét : Nét cong kín bên trái và nét móc ngược bên phải.
* Âm g gồm 2 nét : Nét cong kín và nét cong phải.
 g gồm 2 nét : Nét cong kín và nét khuyết dưới
Từ việc học kỹ cấu tạo âm bởi những nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ như trên sẽ giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cất tạo và tên gọi của 4 âm sau: 
VD: 
+ Âm d : gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng ở bên phải.
 Đọc là : “ dờ”
+ Âm b : gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên phải, nét sổ thẳng nằm ở bên trái
	 Đọc là : “bờ”.
Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau). Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó.
VD:
+ Các âm ghép: ch - c
 nh - n 	
	 th - t
	 kh - k
 	gh - g
	ph - p
	ngh - ng
+ Còn lại các âm :
	gi,tr, qu,ng tôi cho học kỹ về cấu tạo
+ Phân từng cặp :
 ch - tr , ng - ngh, c - k, g – gh để học sinh phát âm chính xác và viết chính tả.
 - Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau) đa số học sinh chậm trong lớp rất nhanh quên cách đọc của những âm này nên trong các bài ôn tập tôi luôn cho học sinh đọc , ghép , viết , nhiều giúp các em ghi nhớ tên âm .
 - Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn tìm đủ cách để kiểm tra phát hiện sự tiến bộ của trẻ thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ.. từ đó củng cố thêm kiến thức cho học sinh.
*Phần học vần 
 Sang giai đoạn học vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm quen với các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng.
Để giúp trẻ học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen:nhận diện, phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững.
VD: Học vần ay :
 1/ Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần ay : vần ay gồm 2 âm: âm a và âm y đứng sau 
 Vị trí âm trong vần: âm a đứng trước, âm y đứng sau.
 2/ Đánh vần vần ay : 
 - Hướng dẫn học sinh: âm a đứng trước , ta đọc a trước, âm y đứng sau ta đọc y sau : a - y - ay .
 - Đọc trơn vần: ay 
Kết hợp dùng bộ chữ học vần tiếng vần dành cho học sinh sử dụng bộ thực hành ghép chữ dành cho lớp Một để học sinh tìm và ghép âm , thanh , tiếng mới trong mỗi bài Học vần .
Ví dụ : Yêu cầu các em: chọn đúng hai âm : a và y
 Ghép đúng vị trí : a trước y sau
Nếu các em đã ghép đúng giáo viên hướng dẫn cách đánh vần và đọc trơn vần như trên các em sẽ nhận biết và đọc được vần ay
Với cách dạy phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài học sinh như thế nếu được áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kỹ năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt. Trong các bài dạy vần, sách giáo khoa tiếng việt 1 có kèm theo các từ khóa, từ ứng dụng và các câu thơ, câu văn ngắn để học sinh luyện đọc.Muốn cho học sinh đọc được các từ và câu 
ứng dụng trong bài giáo viên cho học sinh nắm chắc các vần sau đó cho các em ghép chữ cái đầu với vần vừa học để đọc tiếng, đọc từ của bài.
 Luôn đưa ra cho học sinh so sánh vần đã học với vần hôm nay học để học sinh so sánh .
VD: dạy vần ay cho học sinh so sánh với vần ai , từ đây học sinh tìm ra âm giống nhau âm nào , khác nhau âm nào ? Rồi so sánh cả hai vần trong bài học : ay / ây .Từ đây giúp các em có kỹ năng so sánh đối chiếu và khắc sâu các vần trong phân môn Học vần .
VD: dạy vần ay có từ máy bay .
Sau khi học sinh nắm vững vần ay, nhìn và đọc được vần ay một cách chắc chắn. Giáo viên đưa ra từ máy bay và giúp học sinh nhận biết: Âm gì đứng trước vần ay (âm b) thanh gì ở trên vần ay (thanh ngang) vậy ta có thể ghép và đánh vần : bờ - ay – bay- bay , đọc trơn : bay , ghép từ :máy bay .
Giáo viên có thể sử dụng tranh minh họa để cho học sinh hứng thú được nhìn vào tranh ảnh sinh động hoặc mẫu vật thật để gợi trí tò mò, ham học hỏi của học sinh giúp các em chủ động trong giờ học.
e/ Phần tập đọc:
- Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh trung bình, yếu. Học sinh khá- giỏi đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn vào bài là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết tốt. Còn học sinh trung bình, yếu các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính xác vần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh.Giáo viên nên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ.
VD: Dạy bài tập đọc Trường Em (sách giáo khoa Ttiếng Việt 1)
 1 Học sinh chưa đọc được tiếng trường, giáo viên nên cho các em đánh vần tiếng trường bằng cách phân tích như sau:
GV: Tiếng trường gồm có âm gì và ghép với vần gì? Có dấu thanh gì?
 HS: Tiếng trường gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh huyền.
GV: Vậy đánh vần tiếng trường thế nào? 
HS: trờ - ương – trương – huyền – trường.
GV: Đọc trơn tiếng này thế nào?
HS : Trường.
Rồi cho học sinh đọc nối tiếp: trường em.
2/ Học sinh yếu không đọc được tiếng trường
GV nên cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường.
GV: Vần ương gồm có mấy âm? 
HS: Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm ng.
GV: Vị trí các âm trong vần thế nào?
HS: Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau.
GV: Đánh vần và đọc trơn vần ương.
HS: ươ- ngờ- ương/ ương
GV: Thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên vần ương.Ta đánh vần, đọc trơn tiếng thế nào?
HS: Trờ - ương – trương- huyền – trường / trường
và sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đành vần nhiều lần để khắc sâu vào trí nhớ học sinh.
IV. NHỮNG PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
Trong từng tiết dạy môn Tiếng việt, để giúp học sinh tích cực và ham học giáo viên cần sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện hỗ trợ tiết dạy như sau:
 - Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu.
 - Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan sát
 tìm hiểu.
 - Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên qua đến bài dạy.
 - Ứng dụng các hình ảnh bài giảng điện tử giảng dạy trong tiết học .
 - Sử dụng thường xuyên bộ đồ dùng học Tiếng Việt của học sinh và giáo viên.
V. PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY
 - Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy nhắm đạt được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương pháp nào được coi là vạn năng , giáo viên nên sử dụng linh hoạt và đồng loạt nhiều phương pháp để giúp học sinh của mình đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một số phương pháp thường được áp dụng trong giờ học :
1. Phương pháp trực quan 
Phương pháp này đòi hỏi học sinh được quan sát vật thật,tranh ảnh tự nhiên , hay việc làm mẫu của giáo viên như cho các em nghe cô phát âm mẫu, đánh vần mẫu, đọc mẫu .
Ví dụ : Khi dạy học sinh học âm l , giáo viên phải phát âm mẫu và cho học sinh quan sát khuôn miêng để các em ‘’bắt chước ‘’ phát âm mới đúng được 
2. Phương pháp đàm thoại, vấn đáp.
 	Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
VD: - Chữ này là chữ gì? ( chữ a, o,b,c, d.)
Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào?( chờ- anh- 
chanh). Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu.Hãy ôn tồn dẫn dắt học sinh từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng, từng câu trong mỗi ngày.
3. Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh.
Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm, đọc yếu để gọi các em thường xuyên đọc bài . Đối với học sinh giỏi – khá tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn.Còn đối với học sinh trung bình – yếu tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “ Cố lên, rồi các em sẽ đọc tốt như các bạn nếu các em cố gắng đọc bài nhều ở lớp cũng như ở nhà.” Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi mời các em đọc yếu, trung bình lên bàn giáo viên để cùng đọc bài với cô.Tôi giành nhiều thời gian cho đối tượng này hơn. Cùng đọc bài với các em trong giờ ra chơi ( nhưng vẫn để cho các em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi). Khi các em có biểu hiện tiến bộ tôi thường khen thưởng các em bằng những phần quà nhỏ như cuốn vở, viên phấn màu, cây bút đẹp vv để các em thích thú và cố gắng hơn.
4.Phương pháp học nhóm
 Ngay từ đầu năm học qua khảo sát , phân loại học sinh trong lớp tôi bố trí cho học sinh giỏi kèm học sinh yếu, em giỏi ngồi gần em yếu để giúp bạn học tập , yêu tiên những học sinh yếu được ngồi ở dãy bàn thứ nhất và thứ hai trong lớp . trong từng giờ học lúc nào tôi cũng gọi các em đọc bài nhiều hơn những bàn học sinh khác , gọi đọc theo nhóm đôi ( trong cùng bàn ) để học sinh yếu đọc theo học sinh giỏi ,và học sinh yếu cũng được luyện tập nhiều hơn .
5.Phương pháp tổ chức các trò chơi
Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia.
VD Trò chơi Đọc nhanh – Đọc đúng 
Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi thường hay chọn các học sinh trung bình, yếu để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
Hay trò chơi Chỉ nhanh – Chỉ đúng 
Tôi gọi một nhóm 3 học sinh lên bảng 1 em (là học sinh khá, giỏi ) đọc cho hai học sinh yếu chỉ vào âm, vần , tiếng , từ do bạn đọc .Trò chơi này học sinh rất thích và lớp học cũng sôi nổi .
6. Phương pháp nhận xét nêu gương.
Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh trung bình – yếu để giúp các em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn giỏi trong lớp.
VD: Bạn Ánh bạn Kiên đọc giỏi, học giỏi vì các bạn ấy rất chăm chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc bài và luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt đọc hay hơn. Các bạn luôn thi đua với nhau xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em cũng sẽ đọc giỏi như các bạn ấy nếu có cố gắng đọc nhiều, như các bạn : đọc chưa thông, đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm, nhẩm xong đọc to lên và cứ thế mà đọc mãi, đọc 
đi đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được ngay mới thôi và tôi đã cũng đọc với các bạn nhỏ trung bình – yếu ấy, nhằm giúp đỡ khả năng đọc bài, cũng như giúp các em phân tích tiếng, cách đọc một tiếng, cách đọc sao cho nhanh như: nhẩm âm đầu → nhẩm vần → ghép âm đầu với vần → ghép dấu thanh thành tiếng vv
7. KẾT QUẢ
Trong quá trình áp dụng các biện pháp, phương pháp trên để rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.Tôi thấy kỹ năng đọc của các em học sinh tiến bộ hẳn lên 
 - Số học sinh yếu giảm dần trong năm học: 2014-2015
Năm học
 Sĩ số
học sinh
Số học sinh đọc yếu
Đầu năm
Giữa kỳ I
Cuối kỳ I
2014 – 2015
 35
16
9
0
0
THÁNG
SĨ SỐ
SỐ HỌC SINH ĐỌC YẾU
9
35
16
10
35
9
Năm học: 2014 -2015: Đây là một kết quả rất đáng mừng, bù đắp cho công sức và sự kiên nhẫn của cả thầy và trò trong quá trình rèn luyện .
B/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
 	 Rèn kỹ năng đọc cho học sinh là đọc đúng âm, vần, tiếng,từ,câu,đoạn,bài vvĐọc còn yêu cầu học sinh biết ngắt nghỉ đúng ở dấu phẩy, dấu chấm, đọc còn yêu cầu các em phát âm chuẩn, chính xác các con chữ để khi viết các em không nhầm lẫn dẫn đến sai lỗi chính tả.
Vì thế để phân môn tập đọc của học sinh lớp 1 có kết quả cao. Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, phải yêu học sinh như chính con mình, biết rõ mặt mạnh,mặt yếu của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập.
Trong từng tiết d

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_doc_cho_HS_lop_1.doc