Sáng kiến kinh nghiệm Những sai lầm học sinh thường mắc phải trong một số thí nghiệm ở trường THCS

- Thí nghiệm hóa học là nền tảng của dạy học hóa học. Nó giúp học sinh chuyển từ tư duy cụ thể sang tư duy trừu tượng và ngược lại. Khi làm thí nghiệm giúp các em làm quen với các chất hóa học, các tính chất lý, hóa của chúng. Từ đó các em hiểu được các quá trình biến đổi hóa học, nắm vững các khái niệm, định luật, học thuyết hóa học.

 - Thí nghiệm hóa học là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn. Học sinh sẽ thấy hứng thú và dễ ghi nhớ bài hơn nếu trong quá trình dạy và học giáo viên luôn có định hướng liên hệ giữa các kiến thức sách giáo khoa với thực tiễn đời sống hàng ngày. Rất nhiều kiến thức hóa học có thể liên hệ được với các hiện tượng tự nhiên xung quanh chúng ta. Điều này không chỉ đúng với các bài lí thuyết mà còn đúng với các bài có nội dung thực hành thí nghiệm.

 Giáo viên có thể khai thác các thí nghiệm học sinh đã từng trải nghiệm trong thực tiễn, từ đó liên hệ với kiến thức đang học. Ngoài các thí nghiệm học sinh đã từng trải nghiệm, giáo viên có thể giao các thí nghiệm liên quan đến đời sống về nhà cho các nhóm tiến hành để củng cố lí thuyết. Ví dụ: học sinh có thể tiến hành các thí nghiệm điều chế các chất phục vụ trực tiếp cho sinh hoạt trong gia đình như làm rượu nếp, làm giấm ăn, làm tinh dầu hoa hồng, tinh dầu bưởi, dầu dừa Các thí nghiệm này sẽ làm các em thích thú vì được sử dụng các sản phẩm sạch do chính tay mình làm, từ đó củng cố thêm niềm say mê khoa học cho các em.

 - Thí nghiệm hóa học giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng thực hành: Các thao tác và cách thức tiến hành thí nghiệm. Qua đó hình thành những đức tính của người lao động: cẩn thận, khoa học, kỷ luật.

 - Thí nghiệm hóa học giúp học sinh rèn luyện tư duy, hình thành thế giới quan duy vật bện chứng. Khi được tự tay làm các thí nghiệm hoặc tận mắt quan sát các hiện tượng xảy ra, làm cho học sinh tin tưởng vào tri thức khoa học và thêm tin tưởng vào chính bản thân mình.

- Sử dụng thí nghiệm sẽ tạo điều kiện cho học sinh mạnh dạn, chủ động do được sự hỗ trợ của các hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm và sự khuyến khích của giáo viên từ đó phát triển kĩ năng nhận thức kiến thức môn học.

- Thí nghiệm thực hành rất phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh. Sử dụng thí nghiệm giúp học sinh có sự hăng say, hứng thú hơn với môn học, các em thích tham gia các hoạt động tìm tòi, khám phá đồng thời giúp học sinh rèn luyện tính cẩn thận cần cù, kiên trì, tiết kiệm, từ đó giúp học sinh hình thành và phát triển nhân cách.

- Giáo viên tổ chức sử dụng thí nghiệm thực hành trong quá trình dạy học sẽ từng bước giảm tỉ lệ học sinh yếu kém, nâng cao chất lượng đại trà.

 Như vậy, qua thí nghiệm hóa học, những kiến thức lý thuyết về hóa học trở thành hiện thực. Thí nghiệm hóa học được sử dụng theo những cách khác nhau để giúp học sinh thu thập và xử lý thông tin nhằm hình thành kiến thức, kĩ năng và năng lực cho học sinh.

 

docx25 trang | Chia sẻ: Bình Đặng | Ngày: 07/03/2024 | Lượt xem: 37 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Những sai lầm học sinh thường mắc phải trong một số thí nghiệm ở trường THCS, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan giáo viên phải tận dụng hết đồ dùng, bởi đồ dùng trực quan là một trong những yêu cầu cơ bản của thí nghiệm biểu diễn. Để đảm bảo tính trực quan giáo viên phải:
 Chuẩn bị dụng cụ thích hợp, có kích thước đủ lớn, có cấu tạo đơn giản thể hiện rõ bản chất của hiện tượng nghiên cứu.
 Sắp xếp dụng cụ một cách hợp lí. Điều này biểu hiện:
 + Chỉ bày những dụng cụ cần thiết cho thí nghiệm, không bày những dụng cụ chưa dùng đến hoặc đã dùng xong.
 + Bố trí sao cho cả lớp đều nhìn rõ. Muốn như vậy nên sắp xếp dụng cụ trên mặt phẳng cao so với mặt đất, tốt nhất dùng bàn giáo viên. Nếu không được phải đưa đến tận bàn cho học sinh xem. Giáo viên cũng cần chú ý không che lấp thí nghiệm khi thao tác.
 - Để phát huy được tác dụng của thí nghiệm biểu diễn: 
 + Thí nghiệm phải được tiến hành hữu cơ với bài học, tùy vào mục đích bài học mà đưa thí nghiệm đúng lúc.
 + Thí nghiệm phải kết hợp với phương pháp dạy học khác, nhất là phương pháp đàm thoại và vẽ hình.
1.3.2.2 Thí nghiệm của học sinh
 Tùy vào nội dung kiến thức cần đạt mà giáo viên tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm theo những mục đích khác nhau: 
 a)Thí nghiệm nghiên cứu bài mới
 + Đây là phương pháp dạy học có khả năng phát triển một cách tốt nhất năng lực trí tuệ của học sinh, kích thích hứng thú học tập của học sinh vì nó rèn cho học sinh nhận thức và phân tích dấu hiệu, hiện tượng cụ thể bằng kinh nghiệm riêng của mình và thu hút mọi khả năng của học sinh và nhận thức đối tượng. Như vậy khi học sinh được giao tận tay những dụng cụ, hóa chất và tự thực hiện lấy thí nghiệm thì việc làm quen với dụng cụ, hóa chất sẽ đầy đủ hơn. Ở đây học sinh tự điều khiển các quá trình biến đổi các chất nên có sự phối hợp giữa hoạt động trí não và hoạt động chân tay trong quá trình nhận thức của mình.
 + Việc tổ chức học sinh làm thí nghiệm có thể áp dụng theo 2 cách:
 - Toàn lớp làm chung một thí nghiệm.
 - Mỗi nhóm làm một thí nghiệm khác nhau.
 Khi tiến hành theo nhóm giáo viên cần bố trí để học sinh trong nhóm lần lượt làm thí nghiệm.
 + Sử dụng thí nghiệm trong dạy học Hóa học khi nghiên cứu bài mới có thể theo 3 phương pháp khác nhau. Cụ thể: 
 * Phương pháp nghiên cứu: Cần đưa ra được các giả thuyết. Nghĩa là kiến thức cần lĩnh hội đối với học sinh là kiến thức mới, học sinh chưa được học lí thuyết chung về chúng để có thể suy diễn, dự đoán được. Tuy nhiên từ những kiến thức cơ sở có thể đưa ra các giả thuyết khác nhau, với học sinh khả năng xảy ra các giả thuyết đó ngang nhau không thể lập luận loại trừ được; học sinh sẽ quan sát hoặc tiến hành thí nghiệm, phân tích các hiện tượng từ đó xác nhận được giả thuyết đúng.
 Giáo viên thường sử dụng thí nghiệm theo phương pháp nghiên cứu khi dạy tính chất của các chất mà bản chất, nguyên nhân của tính chất này không giống các chất đã học. 
 * Phương pháp đặt vấn đề và giải quyết vấn đề: Cần tạo được mâu thuẫn nhận thức. Nghĩa là giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức giữa kiến thức đã có của học HS với kiến thức cần lĩnh hội bằng thí nghiệm; thông qua thí nghiệm phân tích các hiện tượng, từ đó rút ra kiến thức mới, giải quyết mâu thuẫn nhận thức lúc đầu.
 * Phương pháp kiểm chứng: Học sinh cần dự đoán được hiện tượng thí nghiệm trên cơ sở những kiến thức đã có. Thường kiến thức cần lĩnh hội là sự vận dụng có lí thuyết chung vào các trường hợp cụ thể (những trường hợp theo đúng lí thuyết chung, không đặc biệt) hoặc các tính chất của chất mới tương tự chất đã học.
 Với mỗi trường hợp cụ thể, giáo viên cần xác định rõ mục tiêu, nội dung thí nghiệm cũng như tình trạng kiến thức kĩ năng của học sinh mà lựa chọn phương pháp sử dụng cho phù hợp sao cho học sinh vừa có thể tích cực lĩnh hội kiến thức mới, vừa có thể củng cố kiến thức, kĩ năng đã có và yêu thích môn học.
 Các phương pháp sử dụng thí nghiệm:
 Để các thí nghiệm đạt hiệu quả cao nhất, giáo viên cần lựa chọn phương pháp sử dụng thí nghiệm theo hướng tích cực phù hợp.
 Trước hết giáo viên cần hiểu rõ bản chất, nét đặc trưng của mỗi phương pháp sử dụng thí nghiệm, từ đó có thể thấy được đặc điểm của kiến thức có thể lĩnh hội theo từng phương pháp một cách phù hợp tích cực.
 Các bước lựa chọn phương pháp sử dụng thí nghiệm
Bước 1: Xác định mục tiêu dạy học và nội dung thí nghiệm được sử dụng.
 Dựa vào chuẩn kiến thức, kĩ năng để xác định mục tiêu dạy học. Lưu ý mục tiêu dạy học phải được diễn đạt bằng các động từ hành động có thể lượng hóa, đánh giá được mức độ lĩnh hội kiến thức, kĩ năng của học sinh, nghĩa là cần chỉ rõ các kiến thức, kĩ năng học sinh cần lĩnh hội ở các mức độ biết, hiểu, vận dụng,.... Mục tiêu được diễn đạt càng chi tiết, cụ thể sẽ định hướng các hoạt động dạy học.
Bước 2: Xác định được các kiến thức, kĩ năng liên quan mà học sinh đã có.
 Giáo viên cần xác định ở các lớp trước, các bài trước học sinh đã được học kiến thức cần lĩnh hội chưa (có thể được học rồi nhưng chỉ ở mức độ biết hoặc được giới thiệu) hay đã được học các kiến thức tương tự chưa, cách tiến hành thí nghiệm có tương tự thí nghiệm nào mà học sinh đã biết không, hay đã được học lí thuyết chung nào liên quan đến kiến thức cần lĩnh hội,
Bước 3: Lựa chọn phương pháp sử dụng thí nghiệm phù hợp
 Trên cơ sở xác định mục tiêu, nội dung thí nghiệm và kiến thức, kĩ năng đã có của học sinh, so với bản chất, nét đặc trưng của mỗi phương pháp sử dụng thí nghiệm ở trên mà GV có sự lựa chọn phù hợp.
 b) Thí nghiệm trong giờ luyện tập, ôn tập.
 Sử dụng thí nghiệm trong giờ luyện tập, ôn tập không phải lặp lại những thí nghiệm đã biểu diễn mà có thể thực hiện các thí nghiệm mới, có những dấu hiệu chung của thí nghiệm đã làm nhưng có những dấu hiệu của kiến thức mới nhằm chỉnh lý, củng cố, khắc sâu kiến thức, tránh hiện tượng khái quát hóa, suy diễn thiếu chính xác ở học sinh.
 Giáo viên có thể sử dụng thí nghiệm hóa học như một bài tập nhận thức, tổ chức cho học sinh tiến hành thí nghiệm, quan sát, mô tả đầy đủ hiện tượng và giải thích hoặc biểu diễn ở dạng thí nghiệm vui rồi yêu cầu học sinh giải thích.
 Giáo viên không cần chọn nhiều thí nghiệm mà chỉ cần 1 hoặc 2 thí nghiệm để khắc sau kiến thức hoặc để luyện tập kỹ năng vận dụng kiến thức một cách tổng hợp.
 c) Thí nghiệm thực hành: Đây là thí nghiệm học tự làm lấy khi hoàn thiện kiến thức, nhằm minh họa, ôn tập, củng cố kiến thức đã học, đồng thời rèn kỹ năng làm việc với dụng cụ , hóa chất, kỹ năng tiến hành thí nghiệm, kỹ năng mô tả và giải thích hiện tượng....
 Để đạt được thành công của thí nghiệm thực hành, học sinh cần nắm được nội dung bài thực hành bao gồm: Mục đích, chuẩn bị dụng cụ - hóa chất, nội dung (gồm các thí nghiệm cụ thể và cách tiến hành), báo cáo kêt quả thí nghiệm, cụ thể như sau:
 -Mục đích thí nghiệm : Học sinh cần có về kiến thức, kỹ năng và thái đố cần đạt 
 - Dụng cụ - hóa chất: Tên dụng cụ, số lượng cần thiết để thực hiện từng thí nghiệm cụ thể .
 - Nội dung bài thực hành được cấu trúc như sau:
 + Thứ tự, tên thí nghiệm.
 + Các bước tiến hành.
 + Quan sát hiện tượng, mô tả hiện tượng, giải thích và viết các phương trình phản ứng, kết luận ... 
 + Cuối giờ thực hành mỗi học sinh phải hoàn thành bản tường trình theo mẫu sẵn, có thể hướng dẫn đánh giá và cho điểm bài thực hành theo nhóm hoặc cá nhân.
 Sau cùng giáo viên hướng dẫn học sinh rửa sạch các dụng cụ thí nghiệm, sắp xếp ngăn nắp các dụng cụ và hóa chất đúng nơi quy định.
 d)Thí nghiệm ngoại khóa hóa học :bao gồm các thí nghiệm ngoài giờ lên lớp có thể thực hiện ở trường hoặc ở nhà.
 Thí nghiệm ngoài giờ lên lớp được thực hiện bao gồm 
 + Các thí nghiệm hóa học vui giúp học sinh hứng thú áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn sinh động của buổi sinh hoạt, chuyên đề hóa học.
 + Các thí nghiệm đòi hỏi thời gian nhất định mà các em trong giờ học không có thời gian thực hiện: Làm giấm ăn, chế tạo chất thơm.
 + Thí nghiệm thu hồi những sản phẩm phụ của thí nghiệm trên lớp, để tận dụng nguồn hóa chất.
 + Thí nghiệm nhận biết chất, phân biệt chất dựa vào tính chất lý, hóa cơ bản của chất.
 Thí nghiệm quan sát ở nhà: Đây là hình thức hoạt động độc lập, tích cực của học sinh. Giúp các em tiếp thu kiến thức một cách tự giác và có hứng thú với môn Hóa học. 
 1.4. Đánh giá năng lực thực hành thí nghiệm
 Đánh giá năng lực người học là một khâu then chốt trong dạy học. Để đánh giá đúng năng lực người học, cần phải xác định được hệ thống năng lực chung và năng lực chuyên ngành, xác định được các thành tố cấu thành năng lực và lựa chọn được những công cụ phù hợp để đánh giá, sao cho có thể đo được tối đa các mức độ thể hiện của năng lực. Trong quá trình học tập, học sinh có thể cùng lúc thể hiện nhiều năng lực, nhưng giáo viên chỉ nên tập trung vào một hoặc một vài năng lực chính, đặc trưng.
 Đối với việc thực hành thí nghiệm, giáo viên cần tập trung vào các năng lực thực nghiệm, bao gồm các kỹ năng: hình thành giả thuyết nghiên cứu; thiết kế thí nghiệm, thực hiện thí nghiệm, phân tích dữ liệu và rút ra kết luận.
 Việc này dễ dàng thực hiện được đối với các thí nghiệm trên lớp, bằng cách giáo viên lắng nghe các giả thuyết của học sinh (thông qua vấn đáp hoặc qua phiếu học tập), quan sát kĩ năng tiến hành thí nghiệm, và việc thảo luận kết quả thí nghiệm của học sinh. Tuy nhiên, đối với các thí nghiệm thực tế được giao về nhà, việc đánh giá chủ yếu dựa vào kết quả học sinh thu thập được và các kết luận tương ứng được rút ra qua các thí nghiệm. Bên cạnh đó, những thí nghiệm được tiến hành theo nhóm cần được giáo viên thiết kế phiếu đánh giá cụ thể để các thành viên trong nhóm tự đánh giá lẫn nhau về quá trình thực hiện, từ đó làm căn cứ để giáo viên đánh giá chung về năng lực hợp tác và năng lực thực hành của học sinh. 
Chương 2. Thực trạng và giải pháp của vấn đề nghiên cứu.
1.Thực trạng 
 Trong việc giảng dạy hóa học ở trung học cơ sở tình trạng giáo viên truyền thụ kiến thức , học sinh tiềp thu một cách thụ động vẫn còn phổ biến, các hoạt động trên lớp chủ yếu do giáo viên thực hiện: Giáo viên làm thí nghiệm , giải thích tranh và giới thiệu mô hình cho học sinh quan sát và thông báo kết quả giáo viên chưa khai thác được các hiện tượng, chưa tổ chức cho học sinh nghiên cứu thí nghiệm để học sinh nhận xét hiện tượng, giải thích viết phương trình và rút ra tính chất của chất .
 Mục đích thí nghiệm hóa học chủ yếu theo hướng chứng minh cho lời giảng còn thí nhiệm do học sinh làm rất hạn chế do học sinh chưa quên với với các dụng cụ thí nghiệm, lắp thí nghiệm thao tác chưa chính xác dẫn đến không thành công , không an toàn, không đảm bảo được nội dung tiết học theo phân phối chương trình.
 Trong việc kiểm tra đánh giá đưa ra câu hỏi và bài tập còn nặng về tính toán và chủ yếu là tái hiện lại những kiến thức hoặc những bài tập có sẵn trong sách giáo khoa. Rất ít những bài tập đòi hỏi hiểu các sơ đồ hình vẽ, các hiện tượng và các kĩ năng thực hành. Do đó khi thực hành học sinh chưa quan tâm nhiều đến quan sát và ghi chép các hiện tượng dẫn đến chưa có hiệu quả cao khi thực hành .
 *Thuận lợi: 
 - Các trường THCS hiện nay đã có phòng học thực hành bộ môn hóa.
 - Đa số các em học sinh đều thích làm thí nghiệm hóa học.
 * Khó khăn: 
 - Một số em học sinh vẫn đang học hóa một cách thụ động, còn lúng túng khi làm thí nghiệm:
 + Làm thí nghiệm chậm, không theo trình tự dẫn đến kết quả không chính xác, làm mất thời gian, ảnh hưởng đến chất lượng của tiết học.
 + Tâm lý sợ học bộ môn, sợ nguy hiểm do hóa chất và dụng cụ bị vỡ.
 - Nhiều trường vẫn chưa có cán bộ chuyên trách thiết bị thí nghiệm.
 - Mặc dù đã có phòng học bộ môn nhưng cơ sở vật chất vẫn đang thiếu thốn: 
 + Hóa chất cấp lâu ngày không bảo đảm chất lượng dẫn đến một số kết quả thí nghiệm không thành công.
 + Thiếu một số hóa chất, dụng cụ thí nghiệm cần thiết. 
 2. Giải pháp
 2.1 Giải pháp chung
 *Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho học sinh:
 - Tăng cường giáo dục thái độ không ngừng kích thích sự ham muốn tìm tòi những cái mới nhằm phát huy sự chủ động, sáng tạo của học sinh, biến Họ thành những người có khả năng nghiên cứu, nắm vững các nội dung cần học và thiết tha những kiến thức mới về Hoá học để có thể áp dụng nghề nghiệp trong tương lai.
 - Tăng cường các hoạt động rèn luyện kĩ năng thực hành của học sinh trong giờ học, làm cho học sinh trở thành chủ thể hoạt động bằng các biện pháp hợp lí như:
 + Tổ chức cho học sinh tự giác làm các thí nghiệm, tự nhận xét thí nghiệm, ưu tiên sử dụng hình thức thảo luận, tranh luận, xây dựng giả thuyết
 + Các gợi ý của giáo viên phải làm tăng mức độ trí lực học sinh qua việc trả lời các câu hỏi tổng hợp, đòi hỏi so sánh, suy luận trước và sau khi thí nghiệm để học sinh tự mình giải quyết các tình huống có “vấn đề” 
 *Tăng cường tham mưu lên cấp trên để kịp thời bổ sung những dụng cụ, hóa chất còn thiếu.
 2.2 Giải pháp cụ thể
 2.2.1 Sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh 
 1. Sự chuẩn bị của giáo viên 
 Giáo viên sau khi nhận lớp, tìm hiểu kĩ về tình hình học tập bộ môn của lớp, sau đó kết hợp với giáo viên chủ nhiệm tiến hành việc phân nhóm, trong đó phải có đủ đối tượng theo năng lực bộ môn phải có nhóm trưởng, nhóm phó, đến khi nhóm trưởng vắng thì nhóm phó thay, có thư kí ghi chép hiện tượng xảy ra trong quá trình làm thí nghiệm, ý kiến thống nhất và viết phương trình hóa học xảy ra. Nhóm trưởng chịu trách nhiệm phân công, điều hành hoạt động của nhóm theo hướng dẫn của giáo viên, yêu cầu nhóm trưởng khi phân công nhiệm vụ của mỗi thành viên trong nhóm phải thường xuyên đổi vị trí làm việc của mỗi thành viên để tất cả học sinh đều được làm thí nghiệm sẽ có kĩ năng thực hành tốt hơn.
 Phải tích lũy kinh nghiệm bằng cách làm thí nghiệm nhiều lần để rút ra thiếu sót và có thể cải tiến, sáng tạo. Nắm vững những kỹ thuật làm thí nghiệm.
 Phải chuẩn bị tỉ mỉ, chu đáo trước khi tiến hành lên lớp. Không nên chủ quan cho rằng thí nghiệm đó đơn giản đã làm quen nên không cần thử trước.
 Khi chuẩn bị cho thí nghiệm cần chuẩn bị chu đáo về mọi mặt như: Lượng hóa chất, nồng độ các dung dịch, nhiệt độ...là yếu tố quan trọng.
 Chuẩn bị dụng cụ cần đồng bộ, gọn, đảm bảo tính khoa học. Kiểm tra số lượng, chất nghiên cứu cách khắc phục những sự cố xảy ra.
 Giáo viên phải tổ chức để học sinh thực sự chủ động thực hiện các hoạt động theo kế hoạch bài giảng. Tập trung theo dõi uốn nắn các nhóm gặp khó khăn. 
 2. Sự chuẩn bị của học sinh 
 Khi làm một bài thí nghiệm học sinh phải chuẩn bị trước ở nhà, đọc các vấn đề lí thuyết liên quan đến bài thực hành trong sách giáo khoa hay sách hướng dẫn thực hành, tìm hiểu tính chất của các chất ban đầu và sản phẩm cũng như tính độc và cách đề phòng, tìm hiểu các điều kiện phản ứng, các dụng cụ của bài thực hành. Trên cơ sở đó làm đề cương cho bài thực hành để sau khi làm xong thí nghiệm bổ sung thêm vào bản tường trình nộp cho giáo viên.
 Chuẩn bị kĩ phần lí thuyết và phương pháp tiến hành làm thí nghiệm các dụng cụ cần dùng. Thí nghiệm học tập và nghiên cứu phải được bố trí một cách khoa học và có định hướng, không được làm mò mẫm. Trước khi làm thí nghiệm các nhóm phải bàn thật kĩ trong việc bố trí thời gian, phân công thành viên làm thí nghiệm và số người ghi hình ảnh tránh tác động thừa và thiếu. Bản thân mỗi thành viên đều phải biết thật kĩ mục đích thí nghiệm, nguyên tắc, phương pháp thí nghiệm, phải dự đoán hiện tượng xảy ra và giải thích nó, viết phương trình và kết luận các vấn đề đã khảo sát.
 Phải nhớ và tuân thủ một số nguyên tắc: Không chuẩn bị đầy đủ, không hiểu nội dung thí nghiệm không được làm thí nghiệm.
2.2.3 Những sai lầm của học sinh trong các tiết thực hành của sách giáo khoa hóa học 8
 a. Một số thí nghiệm trong sách giáo khoa Hóa học lớp 8
 * Bài thực hành 1: Tính chất nóng chảy của chất 
 Tách chất từ hỗn hợp 
 Đây là tiết đầu tiên học sinh được làm quen với các dụng cụ- hóa chất. Nên giáo viên yêu cầu học sinh nghiên cứu thật kỹ phần ‘Phụ lục 1. Một số quy tắc an toàn – Cách sử dụng hóa chất, một số dụng cụ trong phòng thí nghiệm’ và nội dung bài thực hành. Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần lưu ý một nội dung sau: 
 Ở thí nghiệm 1: Theo dõi sự nóng chảy của các chất parafin và lưu huỳnh.
 + Cần điều chỉnh việc lấy hóa chất của học sinh: Lấy một ít lưu huỳnh, một ít parafin(chỉ bằng hạt lạc). Nếu nhóm nào làm chưa đúng yêu cầu làm lại. Tuyệt đối không được làm hóa chất rơi vãi ra ngoài ống nghiệm.
 + Chiều cao của cốc nước khoảng 2cm .
 + Cách cắm nhiệt kế vào cốc, phải để cho nhiệt kế đứng quay mặt ra cho dễ đọc.
 - Thí nghiệm 2: Tách riêng chất từ hỗn hợp muối cát.
 Đây là thí nghiệm tương đối dễ làm. Tuy vậy giáo viên cũng cần chú ý hình thành học sinh một số kỹ năng sau: 
 + Cách kẹp ống nghiệm : Dùng kẹp gỗ kẹp gần sát miệng ống nghiệm(cách miệng ống 1/3)
 + Khi đun nóng ống nghiệm : Lúc đầu hơ dọc ống nghiệm trên ngọn lửa đèn cồn cho ống nghiệm nóng đều, sau đó đun ở đáy ống nghiệm. Vừa đun vừa lắc nhẹ ống để tránh chất lỏng sôi đột ngột và phun mạnh ra ngoài.
 + Hướng miệng ống nghiệm về phía không có người.
 *Bài thự hành 2: Sự lan tỏa của chất 
 Để mỗi thí nghiệm được thành công, học sinh không phải làm lại, giáo viên cần lưu ý một số nội dung sau:
 - Thí nghiệm 1: Sự lan tỏa amoniac
 + Lấy giấy quỳ tím tẩm nước để cẩn thận vào sát đáy ống nghiệm.
 + Đặt ống nghiệm nằm ngang và dùng ghim đính chặt bông vào chiếc nút rồi đậy lên miệng ống nghiệm.
 -Thí nghiệm 2: Sư lan tỏa của kali penmanganat.
 + Không nên lấy nhiều thuốc tím chỉ nên lấy một ít mảnh vụn tinh thể thuốc tím.
 + Lấy thuốc tím vào tờ giấy gấp đôi, rồi bàn tay này khẽ đập vào bàn tay kia giữ giấy.
 *Bài thực hành 3: Dấu hiệu của hiện tượng và phản ứng hóa học.
 - Thí nghiệm 1: Hòa tan và đun nóng Kali penmanganat
 + Lượng thuốc tím cần lấy: bằng vài hạt đỗ.
 + Cách đun nóng ống nghiệm: Lúc đầu hơ dọc ống nghiệm trên ngọn lửa đèn cồn cho ống nghiệm nóng đều, sau đó đun ở đáy ống nghiệm.
 + Dùng một que đóm còn tan đỏ vào sát mặt chất rắn(tuyệt đối không bỏ trực tiếp vào ống nghiệm)
 + Để ống nghiệm nguội sau đó đổ nước vào.
 -Thí nghiệm 2: Thực hiện phản ứng với canxi hidroxit
 Giáo viên cần hướng dẫn học sinh lọc để thu được dung dịch nước vôi trong.
 *Bài thực hành 4: Điều chế - Thu khí oxi và thử tính chất của oxi 
 Đây là một trong những tiết thực hành quan trọng của chương trình hóa học lớp 8. Tiết học hình thành cho học sinh rất nhiều kỹ năng. Do đó giáo viên cần chú trọng cho học sinh những nội dung cụ thể sau:
 -Thí nghiệm 1: Điều chế và thu khí oxi 
 + Hướng dẫn học sinh lắp dụng cụ thí nghiệm(như hình vẽ). Trong đó cần chú ý đáy ống nghiệm luôn cao hơn miệng ống nghiệm một chút.
 + Cách cho lượng nhỏ KMnO4 vào ống nghiệm để lượng KMnO4 không bị rơi vãi ra ngoài.
 + Cách đậy và xoáy nút cao su(có ống dẫn khí xuyên qua) sao cho chặt, kín nhưng không làm vỡ ống nghiệm
 + Cách dùng đèn cồn hơ nóng phần ống nghiệm.
 + Cách đưa que đóm còn tàn hồng vào miệng ống nghiệm để nhận ra oxi. Không nên đưa que đóm còn tàn hồng vào sâu bên trong ống nghiệm để tránh oxi bị đốt cháy hết, không có để dùng cho các thí nghiệm sau.
 Giáo viên lưu ý học sinh dựa vào tính chất vật lý của oxi( nặng hơn không khí và ít tan trong nước) để tiến hành thu khí oxi theo 2 phương pháp:
 Phương pháp.Dời chổ của không khí(hình a) 
 + Nhánh dài của ống dẫn khí sâu tới sát gần đáy lọ thu(ống nghiệm).
 + Dưới đáy lọ thu nên cho thêm một ít cát vào(tránh hiện tượng vỡ bình ở các thí nghiệm sau)
 Phương pháp. Dời chổ của nước(hình b). Sau khi thu khí oxi nên để lại một ít nước(tránh hiện tượng vỡ bình ở các thí nghiệm sau)
 Thí nghiệm 2: Đốt cháy lưu huỳnh trong không khí và trong oxi.
 Giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị thí nghiệm(như hình vẽ). Trong đó học sinh cần chú ý:
 + Lấy một lượng nhỏ lưu huỳnh dạng bột (bằng hạt đậu xanh) tránh sinh ra nhiều khí SO2.
 + Khi đưa môi sắt chứa lưu huỳnh đang cháy vào lọ cần đậy nhanh và kín để hạn chế khí SO2 thoát ra ngoài.
 + Ở đáy lọ cần có một ít nước hoặc một ít cát.
* Bài thực hành 5: Điều chế - Thu khí Hidro và thử tính chất của Hidro.
 - Thí nghiệm 1: Điều chế khí hidro từ axit HCl, kẽm. Đốt cháy Hidro trong không khí.
 Giáo viên yêu cầu học sinh lắp dụng cụ thí nghiệm(như hình vẽ)
 Giáo v

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_nhung_sai_lam_hoc_sinh_thuong_mac_phai.docx
Giáo án liên quan