Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 9 - Rèn kỹ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9
* Dạng đề trong đó tư tưởng, đạo lí được nói tới một cách gián tiếp.
Những lưu ý về cách làm bài :
- Ở dạng này vấn đề tư tưởng, đạo lí được ẩn trong một câu danh ngôn, một câu ngạn ngữ, một câu chuyện, một văn bản ngắn. Xuất xứ của một câu danh ngôn, ngạn ngữ, câu chuyện, văn bản ngắn này cũng rất đa dạng: Trong sách giáo khoa, trên báo chí, trên internét, đặc biệt trong cuốn “Quà tặng cuộc sống, cuộc sống quanh ta, bài học cuộc đời, hạnh phúc ở quanh ta.”. Chính vì thế giáo viên cần hướng cho học sinh biết đọc tham khảo, kể cho các em nghe những câu chuyện có liên quan, có nội dung thiết thực với các em hàng ngày.
- Khi làm bài cần chú ý cách nói bóng bẩy, hình tượng thường xuất hiện trong những câu danh ngôn, tục ngữ, thành ngữ., ý nghĩa ẩn dụ, triết lí sâu sắc của những câu chuyện, văn bản ngắn.Vì thế để rút ra được vấn đề tư tưởng đạo lí cần bàn bạc, cần chú ý :
+ Giải thích từ ngữ (nghĩa đen, nghĩa bóng) từ đó rút ra nội dung câu nói (Nếu đề bài có dẫn chứng câu danh ngôn, tục ngữ, ngạn ngữ.)
+ Giải thích ý nghĩa câu chuyện, văn bản (Nêu đề bài có dẫn chứng câu chuyện, văn bản ngắn).
- Thông thường khi làm bài, học sinh chỉ chú ý đến tính chất đúng đắn của vấn đề được đưa ra nghị luận mà ít chú ý thao tác bổ sung, bác bỏ.Những khía cạnh chưa hoàn chỉnh của vấn đề hoặc trái ngược với vấn đề cần quan tâm. Chẳng hạn khi suy nghĩ về tình cảm người mẹ qua câu thơ :
“Dẫu con đi hết cuộc đời
Cũng không đi hết những lời mẹ ru”
(Nguyễn Duy)
rèn cho mình ý thức bảo vệ môi trường. - Coi đó là vấn đề cấp bách của toàn xã hội. c. Kết bài: Khẳng định lại vai trò của môi trường. *Nghị luận về một hiện tượng đời sống. - Yêu cầu về hình thức: Đảm bảo bố cục ba phần, diễn đạt có cảm xúc. - Yêu cầu về nội dung cần đảm bảo các ý sau: + Giải thích hiện tượng. + Trình bày suy nghĩ của người viết về hiện tượng ấy. + Liên hệ thực tế đời sống. + Nêu tác dụng ảnh hưởng và bài học rút ra. Ví dụ : Đề bài: “Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, có những loài cây vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp”. Viết một một bài văn nghị luận (Khoảng 300 từ) nêu suy nghĩ của em được gợi ra từ hiện tượng trên. Gợi ý. Với dạng bài này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập theo ý. *Về hình thức: Trình bày thành văn bản nghị luận ngắn, có bố cục 3 phần rõ ràng (Mở bài, thân bài, kết bài), yêu cầu không quá 300 từ. *Về nội dung: - Giải thích hiện tượng: là hiện tượng có thể bắt gặp trong thiên nhiên, gợi tả sức chịu đựng, sức sống kì diệu của những loài cây “vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp” ngay trong “một vùng sỏi đá khô cằn” (có thể đi từ việc giải thích từ ngữ: Vùng sỏi đá khô cằn, chỉ sự khắc nghiệt của môi trường sống; loài cây vẫn mọc lên và nở những chùm thật đẹp; sự thích nghi, sức chịu đựng, sức sống, vẻ đẹp). - Trình bày suy nghĩ: Hiện tượng thiên nhiên nói trên gợi suy nghĩ về vẻ đẹp của con người trong bất cứ hoàn cảnh nghiệt ngã nào vẫn thể hiện nghị lực phi thường, sức chịu đựng và sức sống kì diệu nhất. Đối với họ nhiều khi sự gian khổ, khắc nghiệt của hoàn cảnh lại chính là môi trường để tôi luyện, giúp họ vững vàng hơn trong cuộc sống. “Những chùm hoa thật đẹp” “Những chùm hoa trên đá” (Thơ: Chế Lan Viên). Thành công đạt dược thật có giá trị vì nó là kết quả của những cố gắng phi thường, sự vươn lên không mệt mỏi. Vẻ đẹp của những cống hiến, những thành công mà họ dâng hiến cho cuộc đời lại càng có ý nghĩa hơn, càng “rực rỡ” hơn... - Liên hệ thực tế : Không có ai ở Việt Nam không biết đến thầy Nguyễn Ngọc Kí đã bị liệt cả hai tay, nhưng anh đã kiên trì luyện tập biến đôi bàn chân thành đôi bàn tay kì diệu viết những dòng chữ đẹp, học tập trở thành nhà giáo, nhà thơ... - Nêu tác dụng, ảnh hưởng, bài học rút ra từ hiện tượng : Những con người với vẻ đẹp của ý chí, nghị lực luôn là niềm tự hào, ngưỡng mộ của chúng ta, động viên và thậm chí cảnh tỉnh những ai chưa biết chấp nhận khó khăn, thiếu ý chí vươn lên trong cuộc sống. b. Hướng dẫn làm bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý: * Lưu ý : Đề bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí khá đa dạng. - Thể hiện ở nội dung nghị luận: Những vấn đề tư tưởng, đạo lí hết sức phong phú, đa dạng.Vì vậy cần tránh học tủ, đoán “mò” nội dung nghị luận. Điều quan trọng là phải nắm được kĩ năng làm bài. - Thể hiện trong dạng thức đề thi: Có đề thể hiện rõ yêu cầu nghị luận, có đề chỉ đưa ra yêu cầu nghị luận mà không đưa ra một yêu cầu cụ thể nào. Có đề nêu trực tiếp vấn đề nghị luận, có đề gián tiếp đưa ra vấn đề nghị luận qua một câu danh ngôn, một câu ngạn ngữ, một câu chuyện... - Chú ý các bước cơ bản của bài văn nghị luận về một tư tưởng đạo lí. Đây cũng là trình tự thể hiện hệ thống lập luận trong bài viết. Học sinh cần tranh thủ những hướng dẫn quan trọng trong sách giáo khoa để nắm chắc kĩ năng làm bài như ở trên. 1.Mở bài: - Dẫn dắt vấn đề. - Nêu vấn đề. 2.Thân bài: - Giải thích vấn đề (nghĩa đen, nghĩa bóng; từ ngữ trọng tâm...) - Khẳng định vấn đề (đúng, sai) - Quan niệm: sai trái. - Mở rộng vấn đề. 3.Kết bài: - Giá trị đạo lí đối với đời sống của mỗi con người. - Bài học hành động cho mọi người, bản thân. Đồng thời giáo viên cần hướng dẫn học sinh chú ý đối với hai dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lí thường gặp. + Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách trực tiếp. + Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách gián tiếp. * Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách trực tiếp. Những lưu ý về cách làm bài. - Cách làm bài dạng đề này về cơ bản giống với cách nói trên. Ví dụ khi gặp đề bài “Bàn luận về lòng yêu nước”, để đáp ứng được yêu cầu của đề, học sinh trước hết phải giải thích khái niệm “Lòng yêu nước”, nêu và phân tích những biểu hiện của “Lòng yêu nước”; ý nghĩa, vai trò của “Lòng yêu nước”đối với đời sống của mỗi con người, mỗi dân tộc, đồng thời phê phán những biểu hiện đi ngược lại với “Lòng yêu nước”, rút ra bài học về nhận thức và hành động cho bản thân. *Ví dụ minh hoạ: Đề bài : Viết một văn bản nghị luận (không quá một trang giấy thi) trình bày suy nghĩ về đức hy sinh. Đề bài yêu cầu học sinh viết một văn bản nghị luận (không quá một trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của bản thân về đức hy sinh. Đây là dạng bài nghị luận xã hội (Về một vấn đề tư tưởng, đạo lý) đã khá quen thuộc với học sinh. Dù vậy, giáo viên cần hướng dẫn các em đáp ứng được các yêu cầu sau : * Trình bày bài viết đúng với yêu cầu của đề; không quá một trang giấy thi. * Có thể diễn đạt theo nhiều cách, song cần đảm bảo bố cục sau: 1.Mở bài: Giới thiệu được đức hy sinh và nêu khái quát đặc điểm vai trò của đức hy sinh. 2.Thân bài. - Giải thích sơ lược, nêu biểu hiện của đức hy sinh : Là những suy nghĩ, hành động vì người khác, vì cộng đồng. Người có đức hy sinh không chỉ có tấm lòng nhân ái mà còn là người biết đặt quyền lợi của người khác, của cộng đồng lên quyền lợi của bản thân mình... - Khẳng định : Đức hy sinh là tình cảm cao đẹp, là phẩm chất đáng quý của con người. Người có đức hy sinh luôn được mọi người yêu mến, trân trọng. - Mở rộng - liên hệ thực tế để thấy: Có nhiều tấm gương giàu đức hy sinh, quên mình vì người khác, sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. (Lấy dẫn chứng tiêu biểu về những người có đức hy sinh - Bác Hồ chính là biểu tượng cao đẹp nhất của con người hy sinh quên mình vì nhân dân, vì dân tộc). Tuy nhiên trong cuộc sống cũng còn một số người có lối sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến quyền lợi của cá nhân mình... 3.Kết bài: - Đức hy sinh từ lâu đã trở thành tình cảm có tính truyền thống đạo lý của con người, dân tộc Việt Nam... Mỗi người cần ý thức được điều này để góp phần làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn. * Dạng đề trong đó tư tưởng, đạo lí được nói tới một cách gián tiếp... Những lưu ý về cách làm bài : - Ở dạng này vấn đề tư tưởng, đạo lí được ẩn trong một câu danh ngôn, một câu ngạn ngữ, một câu chuyện, một văn bản ngắn. Xuất xứ của một câu danh ngôn, ngạn ngữ, câu chuyện, văn bản ngắn này cũng rất đa dạng: Trong sách giáo khoa, trên báo chí, trên internét, đặc biệt trong cuốn “Quà tặng cuộc sống, cuộc sống quanh ta, bài học cuộc đời, hạnh phúc ở quanh ta...”. Chính vì thế giáo viên cần hướng cho học sinh biết đọc tham khảo, kể cho các em nghe những câu chuyện có liên quan, có nội dung thiết thực với các em hàng ngày. - Khi làm bài cần chú ý cách nói bóng bẩy, hình tượng thường xuất hiện trong những câu danh ngôn, tục ngữ, thành ngữ..., ý nghĩa ẩn dụ, triết lí sâu sắc của những câu chuyện, văn bản ngắn.Vì thế để rút ra được vấn đề tư tưởng đạo lí cần bàn bạc, cần chú ý : + Giải thích từ ngữ (nghĩa đen, nghĩa bóng) từ đó rút ra nội dung câu nói (Nếu đề bài có dẫn chứng câu danh ngôn, tục ngữ, ngạn ngữ...) + Giải thích ý nghĩa câu chuyện, văn bản (Nêu đề bài có dẫn chứng câu chuyện, văn bản ngắn). - Thông thường khi làm bài, học sinh chỉ chú ý đến tính chất đúng đắn của vấn đề được đưa ra nghị luận mà ít chú ý thao tác bổ sung, bác bỏ...Những khía cạnh chưa hoàn chỉnh của vấn đề hoặc trái ngược với vấn đề cần quan tâm. Chẳng hạn khi suy nghĩ về tình cảm người mẹ qua câu thơ : “Dẫu con đi hết cuộc đời Cũng không đi hết những lời mẹ ru” (Nguyễn Duy) Ngoài khẳng địng về tình mẫu tử thiêng liêng, ta còn bắt gặp đâu đó những người mẹ còn bỏ rơi con hoặc đánh đập con. Hay khi trình bày suy nghĩ của bản thân về câu nói : “Đừng sống theo điều ta ước muốn, hãy sống theo điều ta có thể”. Học sinh ngoài khẳng định tính chất đúng đắn của lời khuyên (sống thực tế, biết bằng lòng với hiện tại, với những gì mình có...), cần phải hiểu được tầm quan trọng của những khát vọng, ước mơ đối với mỗi con người trong cuộc sống. - Một điều nữa cần lưu ý là không được sa vào phân tích câu danh ngôn, ngạn ngữ, câu chuyện, văn bản...như một bài nghị luận văn học. Ví dụ: Ví dụ1: Nghị luận một vấn đề trực tiếp. “Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru” (Nguyễn Duy). Từ ý thơ trên, hãy viết một bài nghị luận xã hội (khoảng một trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về tấm lòng người mẹ. * Về hình thức : Đảm bảo bài văn bố cục 3 phần, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc. * Về nội dung : - Nêu ý nghĩa câu thơ của Nguyễn Duy “Lời mẹ ru” biểu tượng cho tình yêu thương vô bờ mà mẹ dành cho con. Cách nói “đi trọn kiếp” cũng “không đi hết”. Khẳng định tình mẹ là vô cùng thiêng liêng cao cả và bất tử, là bao la vô tận không sao có thể đền đáp được...Từ đó khẳng định: Tấm lòng của mẹ thật bao la, lớn lao. - Biểu hiện, bàn về tấm lòng của mẹ: + Ban cho con hình hài, muốn con khôn lớn, khoẻ mạnh về vóc dáng, bằng sự chăm sóc ân cần, chu đáo. + Là người dạy con từ những kĩ năng sống đến đạo lí làm người. + Là vị quan toà đầy lương tâm, trách nhiệm, chỉ bảo phân tích xác đáng những sai trái, lỗi lầm. + Là bến đỗ bình yên đón đợi con sau những dông bão cuộc đời. + Là bệ phóng xây dựng niềm tin, khát vọng...để con bay cao, bay xa (lấy dẫn chứng). -Ý nghĩa :Tình yêu và đức hy sinh của mẹ là sức mạnh để giúp con vượt lên khó khăn trong cuộc sống, giúp con sống tốt hơn. - Tuy nhiên trong thực tế, có những người mẹ thể hiện tình thương con không đúng cách (nuông chiều, giấu đi cái xấu, lỗi lầm...), hay có những người mẹ vô trách nhiệm (bỏ rơi, đánh đập con...), những người mẹ ấy đáng bị phê phán. - Bài học về nhận thức và hành động : Liên hệ bản thân, cảm nhận sâu sắc tấm lòng người mẹ với con cái, tình cảm của con với cha mẹ. Ví dụ 2 : Đề bài: Viết bài văn ngắn (không quá 300 từ), trình bày ý kiến của em về câu nói sau đây của nhà văn Nga Leptôn – xtôi. “Bạn đừng nên chờ đợi những quà tặng bất ngờ của cuộc sống mà hãy tự mình làm nên cuộc sống”. Gợi ý : Học sinh cần đáp ứng một số yêu cầu sau : * Hình thức : Bố cục rõ ràng, diễn đạt chặt chẽ, lô gíc. * Nội dung : - Giải thích câu nói : + Quà tặng bất ngờ : Có thể hiểu theo cả nghĩa cụ thể - khái quát (vật chất và tinh thần, những cơ hội may mắn, bất ngờ...). + Nội dung ý nghĩa của câu nói khuyên con người cần có thái độ sống chủ động, có ý chí và nghị lực vươn lên. - Bàn luận : + Quà tặng bất ngờ mang lại niềm vui, sự hào hứng...nhưng không phải lúc nào cũng có. + Nhiều người khi nhận được quà tặng bất ngờ; có tâm lí chờ đợi, ỉ lại, thậm chí phung phí những quà tặng ấy. + Phê phán một số người thụ động, thiếu ý chí vươn lên, chỉ chờ đợi những “quà tặng bất ngờ” mà cuộc sống mang lại mà không “tự mình làm nên cuộc sống”. + Không thể phủ nhận những giá trị ý nghĩa của “quà tặng bất ngờ” mà cuộc sống đem lại cho con người, vấn đề là biết tận dụng, trân trọng quà tặng ấy như thế nào? - Bài học nhận thức hành động : Phải chủ động trang bị kiến thức, rèn luyện cách sống bản lĩnh, có ý chí...để có thể đón nhận những “quà tặng kì diệu” của cuộc sống do chính bản thân mình làm nên. 4, Hướng dẫn học sinh cách tìm dẫn chứng cho bài văn nghị luận xã hội. Để chứng minh một cách thuyết phục cho các luận điểm của một bài văn nghị luận xã hội, người viết phải sử dụng dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu về những người thật, việc thật. Đây là một công việc khá khó khăn đối với học sinh. Để giúp các em biết cách tìm dẫn chứng một cách tốt nhất, xin chia sẻ một số kinh nghiệm trong việc sưu tầm tư liệu phục vụ cho đề văn nghị luận xã hội. - Trong quá trình đọc sách báo, nghe tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng, cần ghi lại những nhân vật tiêu biểu, những sự kiện, con số chính xác về một sự việc nào đó. - Sau một thời gian tích luỹ cần chọn lọc, ghi nhớ và rút ra bài học ý nghĩa nhất cho một số dẫn chứng tiêu biểu. - Cần nhớ, một dẫn chứng có thể sử dụng cho nhiều đề văn khác nhau. Quan trọng là phải có lời phân tích khéo léo. (Ví dụ lấy dẫn chứng về Bác Hồ hay BillGates vừa có thể dùng cho đề bài về tinh thần tự học, về tài năng của con người, hoặc vừa là đề bài về khả năng ý chí vươn lên trong cuộc sống hay về niềm đam mê, bài học về sự thành công, tấm gương về một lòng nhân ái...). Sau đây là một số dẫn chứng tiêu biểu có thể dùng làm dẫn chứng cho một bài văn nghị luận xã hội. * Dùng nhân vật trong thực tế đời sống để làm dẫn chứng. 1. Bác Hồ: Một lãnh tụ vĩ đại, một nhà cách mạng lỗi lạc đồng thời là một nhà văn, nhà thơ. Để có được điều đó Người phải tự học, ý chí vươn lên trong cuộc sống, quan trọng hơn Bác còn là người biết hy sinh mình cho tổ quốc nhân dân. -> Khó khăn không làm cho ý chí lung lay mà ngược lại còn giúp cho con người có nghị lực hơn. 2. Niu–tơn : Là nhà toán học, vật lí, cơ học, thiên văn học vĩ đại người Anh. Sinh ra thiếu tháng, là một đứa trẻ yếu ớt, Niu-tơn thường phải tránh những trò chơi hiếu động của bạn bè. Do đó ông phải tự tạo ra những trò chơi cho mình và trở thành người rất tài năng. -> Những thiếu thốn của bản thân không thắng nổi sức mạnh của nghị lực. 3. Bill Gates: Từ nhỏ đã say mê toán học, từng đậu vào trường Đại học Harvrard nhưng niềm say mê máy tính ông đã nghỉ học và cùng một người bạn mở công ty Micrôsott. Vượt qua nhiều khó khăn, ông đã trở thành người giàu nhất hành tinh và hiện nay ông đã dành 95% tài sản của mình làm từ thiện. Cuộc đời của ông là bài học cho sự thành công nhờ tự học và niềm đam mê công việc... 4. Chu Văn An: (1292 – 1370) là nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối đời Trần. Nổi tiếng cương trực, không cầu danh lợi. Ra làm quan từ thời vua Trần Dụ Tông (Đầu thế kỷ XIV), chính sự suy đồi, nịnh thần lũng đoạn, ông dâng sớ xin chém 7 nịnh thần (thất trảm sở) nhưng không được chấp thuận. Ông treo án từ quan về quê dạy học, viết sách. Ông không vì trò làm quan to mà dựa dẫm, luôn thẳng thắn phê bình những trò thiếu lễ độ. Đây là tấm gương về lối sống trung thực, bất chấp khó khăn vẫn đấu tranh cho lẽ phải. 5. Phan Thị Huệ: Là một trong số ít người Việt Nam nhiễm HIV /AIDS dám công khai thân phận - Phạm Thị Huệ, quê ở Hải Phòng đã được tạp chí Time của Mĩ bầu chọn là “Anh hùng châu Á”. Biết mình và chồng bị nhiễm nhưng cô đã chiến thắng bản thân, đóng góp sức lực cho cuộc đời. Tháng 2/2005 cô trở thành tình nguyện viên của Liên Hợp Quốc. -> Chiến thắng bản thân là chiến thắng vĩ đại nhất. 6. Anh Trần Văn Thước: bị tai nạn lao động liệt toàn thân. Không gục ngã trước số phận, anh can đảm tự học và trở thành nhà văn. Không thể nói hết những gian nan, những giọt nước mắt đau khổ của họ trong những ngày tự mình vượt qua bệnh tật để khẳng định giá trị của mình, để chứng tỏ bản thân tàn nhưng không phế. 7. Nguyễn Công Hùng: Vào năm 2005 cả nước biết đến một Nguyễn Công Hùng (Xã Nghi Diên-huyện Nghi Lộc-Nghệ An) Từ khi sinh đã mắc chứng bại liệt. Anh còn bị căn bệnh viêm phổi hành hạ làm cho sức khoẻ suy kiệt. Vậy mà anh đã không gục ngã. Chàng trai 23 tuổi, bại liệt, chân tay teo tóp, trọng lượng chỉ 12kg và gần như mất hoàn toàn khả năng lao động đã trở thành một chuyên gia tin học và được tôn vinh là Hiệp sỹ công nghệ thông tin năm 2005 vì những đóng góp không vụ lợi của mình cho cộng đồng. Tháng 5/2005 anh được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đưa vào “Danh mục kỷ lục Việt Nam” về người khuyết tật bị bại liệt toàn thân đầu tiên làm giám đốc cơ sở đào tạo tin học và ngoại ngữ nhân đạo. 8. Thầy Nguyễn Ngọc Ký: bị liệt cả hai bàn tay đã kiên trì luyện tập biết đôi bàn chân thành đôi bàn tay kì diệu, viết những dòng chữ thật đẹp trở thành nhà giáo, nhà thơ.-> Chiến thắng bản thân là chiến thắng vĩ đại nhất. Đấy là những con người có nghị lực phi thường trong cuộc sống, những con người biết vượt lên số phận. *Dùng những con số biết nói để làm dẫn chứng. 1. Tính trên toàn thế giới, số người nhiễm HIV hiện nay là 45 triệu người. Trong đó 50% là phụ nữ. Có khoảng 14 triệu trẻ em trên thế giới có cha mẹ, hoặc cả cha mẹ qua đời vì HIV/AIDS. HIV/AIDS là một thảm hoạ, toàn nhân loại cần có những hành động thiết thực để ngăn chặn căn bệnh thế kỷ này. 2. Những con số biết nói về môi trường : 14 chiếc túi ni lon được làm ra tổn phí nhiên liệu bằng lượng xăng dầu cho một chiếc ô tô chạy 1 km. 3. 10 triệu USD là ngân sách nhà nước Việt Nam chi cho vấn đề rác thải hàng năm, trong khi không tiến hành phân loại và tái chế rác gây lãng phí 9 triệu USD (gần 140 tỉ đồng) Sau khi hướng dẫn học sinh sưu tầm các dẫn chứng, tôi nhận thấy các em làm bài tốt hơn. Bài viết lập luận chặt chẽ, xác thực với những dẫn chứng cụ thể trong cuộc sống đời thường. Những tấm gương giúp các em hoàn thiện mình hơn, những số liệu làm các em phải suy nghĩ và biết đưa ra hành động tích cực, để tạo nên sức hút cho bài làm. 5, Hướng dẫn học sinh làm bài nghị luận xã hội theo hướng mở. Trong những năm gần đây, đề thi môn Ngữ văn đã có nhiều thay đổi về cấu trúc cũng như nội dung. Xu hướng chung của các kì thi là ra đề theo hướng mở. Việc ra đề theo hướng mở đã góp phần phát huy trí thông minh, sáng tạo của học sinh trong việc học môn Ngữ văn. Nội dung của đề mở không chỉ là những vấn đề xã hội gần gũi, đời thường. Hiện nay cách ra đề nghị luận xã hội của các thầy cô giáo trong các kì kiểm tra hoặc thi cử sáng tạo, phong phú. Điểm qua đề thi ngữ văn vào lớp 10, thi học sinh giỏi của một số tỉnh, thành ta có thể nhận thấy cách ra đề nghị luận xã hội thường dựa vào những cơ sở sau : Cách thứ nhất: Lấy hiện tượng xã hội nổi bật được cập nhật trên các phương tiện thông tin đại chúng làm cở sở cho nội dung đề bài. Ví dụ: Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp qua đời lúc 18 giờ ngày 4/10/2013 khi ông vừa tròn 103 tuổi. Ngay sau sự ra đi của Đại tướng, trên mạng giới trẻ đồng loạt thay avatar (ảnh đại diện) chia sẻ sự mất mát lớn lao này. Theo 2 sao-trang thông tin tổng hợp của Vietnamnet. “Ngay trong đêm 4 tháng 10, rạng sáng ngày 5/10, một nhóm các bạn học sinh Hà Nội đã tập trung tại khu vực đường Điện Biên Phủ để thắp nến tiếc thương người anh hùng dân tộc”. Ngày 07/10/2013 báo Gia dinh.net đưa tin : “Trên mạng xã hội cư dân mạng truyền tay nhau hình ảnh một thanh niên người Pháp tên Neang đang học tập và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh mặc áo dài trắng, đầu chít khăn tang trắng theo đúng phong tục truyền thống của người Việt Nam, tay cầm tấm chân dung của Đại tướng Võ Nguyên Giáp để tỏ lòng thành kính”. Báo chí nước ngoài nhận định: “Đám tang Đại tướng là hiện tượng hiếm có!”. Hãy bàn luận về những sự việc nói trên. Cách thứ 2: Dựa vào các tác phẩm văn học, người ra đề nêu lên vấn đề xã hội và yêu cầu học sinh bàn luận. Ví Dụ 1: Một câu trong đề thi vào lớp 10 “Sở GD&ĐT tỉnh Thanh Hoá - năm học: 2012-2013” như sau : Có một người cha trước khi chết gọi ba con trai đến bên giường, đưa cho họ bó tên và bảo : “Các con thử bẻ bó tên này xem ai có thể bẻ gãy được. Cả ba người đều lấy hết sức bình sinh để bẻ nhưng bó tên đã không gãy chiếc nào. Người cha cầm lấy bó tên tháo ra và lần lượt bẻ từng chiếc một. Trong phút chốc bó tên đã bị gãy... ”. (Truyện ngụ ngôn : Người cha và bó đũa) Từ câu chuyện trên, em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 30 dòng) bàn về tính đoàn kết trong gia đình và cộng đồng. Ví dụ 2: Trong bài thơ “Quê hương” nhà thơ Đỗ Trung Quân Viết: Quê hương mỗi người chỉ một Như là chỉ một mẹ thôi. Dựa vào ý thơ trên hãy viết một văn bản nghị luận về chủ đề quê hương. Đề bài yêu cầu học sinh viết một bài văn nghị luận (không quá một trang giấy thi) về chủ đề quê hương. Đây là dạng bài nghị luận xã hội (về một vấn đề tư tưởng, đạo lí) với hình thức “khá mở”, tạo điều kiện cho học sinh có thể trình bày ý kiến, cảm nhận của mình xoay quanh chủ đề quê hương như (Vai trò của quê hương đối với đời sống con người, tình yêu sự gắn bó với quê hương...) Qua đề văn đã dẫn trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy: việc có thêm nội dung n
File đính kèm:
- SKKN_NGU_VAN_9_Ren_ki_nang_lam_bai_nghi_luan_xa_hoi_cho_hoc_sinh_lop_9.doc