Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả giảng dạy thơ trữ tình hiện đại trong nhà trường THCS

Chủ đề là vấn đề lớn được đặt ra trong tác phẩm, chủ đề lưu giữ tư tưởng chủ đạo của bài thơ mà nhà thơ đã khái quát hoá một vấn đề xã hội hoặc đời sống. Chủ đề tác phẩm thơ là tâm trạng của nhân vật trữ tình trước một vấn đề nào đó trong hiện thực đời sống. Hiểu được chủ đề là bước quan trọng đầu tiên để có thể phân tích được bài thơ. Khi phân tích văn học nói chung, thơ nói riêng ta cần phải nắm chủ đề của tác phẩm. Xác định được chủ đề của thi phẩm sẽ góp phần định hướng, chi phối mọi thao tác phân tích của chúng ta.

Thơ ca thuộc loại tác phẩm trữ tình, do vậy chủ đề của bài thơ luôn là cảm xúc, tâm trạng, thái độ,. của nhân vật trữ tình đối với một sự vật, sự việc, con người nào đó. Nói cách khác, thơ là sản phẩm của trái tim, tâm hồn người nghệ sĩ, nên dù muốn hay không nó phải mang hơi ấm tâm hồn, nhịp đập trái tim người nghệ sĩ.

 

doc21 trang | Chia sẻ: dung89st | Lượt xem: 4620 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả giảng dạy thơ trữ tình hiện đại trong nhà trường THCS, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ương pháp, các biện pháp, các bước tiến trình tổ chức dạy học như: giới thiệu tác giả, tác phẩm, phân tích bố cục, phân tích giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm thơ nói chungTôi nhận thấy rằng, khi giảng dạy một tác phẩm thơ trữ tình, cần đi sâu khai thác một số các yêu tố trọng tâm sau: Nhân vật trữ tình (Chủ thể trữ tình), hình tượng trữ tình, hình tượng ngôn từBản thân tôi đã vận dụng trong bài thơ “ Bếp lửa” của Bằng Việt, bước đầu đã có hiệu quả. Tôi mạnh dạn đề xuất biện pháp này để anh chị em đồng nghiệp tham khảo.
1. Tìm hiểu tiểu sử của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm thơ.
Tác giả nào, tác phẩm ấy. Mỗi tác phẩm thơ là thế giới nội tâm của nhà thơ, thể hiện tư tưởng, thái độ, tình cảm của nhà thơ đối với cuộc sống, thể hiện khát vọng Chân- Thiện- Mỹ của nhà thơ. Mỗi nhà thơ đều sinh ra trong một hoàn cảnh gia đình, với những sở thích, lối sống nào đó và sống trong một bối cảnh lịch sử - xã hội nhất định. Môi trường gia đình và xã hội, với những biểu hiện đa dạng của nó về chính trị, kinh tế, văn hoá, ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng và tình cảm của nhà thơ, và điều này được phản ánh trong tác phẩm ở một phạm vi nào đó. 
Để hiểu nội dung của tác phẩm trữ tình trước hết giáo viên cần phải giúp học sinh nắm chắc được tiểu sử của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Không nắm được tiểu sử tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, thì không thể hiểu đúng, đánh giá đúng được tác phẩm. 
Ngoài những thông tin trong sách giáo khoa về tác giả và tác phẩm giáo viên cung cấp thêm nhưng thông tin về tác giả, hoàn cảnh ra đời của bài thơ giúp học nắm chắc hơn và tích lũy được những tư liệu quý về tác phẩm.
2. Đọc và quan sát bước đầu để hiểu bài thơ.
	Một trong những yêu cầu của việc dạy và học môn Ngữ văn THCS hiện nay là rèn cho các em các kỹ năng “Nghe - Đọc - Nói - Viết”. Vì vậy trước khi tìm hiểu tác phẩm thơ trữ tình, giáo viên cần tổ chức cho các em đọc. Đọc là bước đầu để hiểu bài thơ. Đọc tác phẩm văn học trước hết chúng ta tiếp xúc với những hình thức nghệ thuật cụ thể của ngôn từ nghệ thuật. Đó là những dấu câu và cách ngắt nhịp, là vần điệu, âm hưởng và nhạc tính, là từ ngữ và hình ảnh, là câu và sự tổ chức đoạn văn, là văn bản và thể loại của văn bản Phân tích tác phẩm văn học không được thoát ly văn bản có nghĩa là trước hết phải bám sát các hình thức biểu hiện lên của ngôn từ nghệ thuật, chỉ ra vai trò và ý nghĩa của chúng trong việc thể hiện nội dung. Vậy chúng ta phân tích thơ trữ tình phải dựa trên thi pháp. Qua việc đọc, để xác định giọng điệu chủ đạo của bài thơ. Nhưng đọc những gì, đọc như thế nào? Vì thế vai trò của người giáo viên là rất quan trọng, giáo viên cần hướng dẫn học sinh các phương pháp đọc: Đọc hiểu, đọc phân tích, đọc diễn cảm trong đó đọc diễn cảm là một phương pháp cơ bản để giúp học sinh cảm nhận được giá trị của tác phẩm. Một bài thơ hay, nhưng nếu đọc không đúng giọng điệu, âm hưởng của bài thơ sẽ làm hỏng giá trị của thơ, người đọc không thể cảm được tư tưởng tình cảm của tác giả thể hiện trong từng câu, từng chữ của bài thơ.
Để phương pháp đọc đạt được hiệu quả, giáo viên cần rèn luyện cho mình và cho học sinh kỹ năng đọc, giáo viên biết đọc đúng, đúng vần, đúng nhịp, đúng âm hưởng của từng câu thơ. Rèn luyện giọng đọc cũng rất quan trọng. Thơ trữ tình là “Tiếng lòng” của tác giả, là tâm hồn, tình cảm, cảm xúc của tác giả gửi gắm trong ngôn từ, hình ảnh. Vì thế việc đọc thơ trữ tình cần
có giọng đọc thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ. 
3.Phân tích tiêu đề bài thơ. 
Thông thường giáo viên khi dạy tác phẩm thơ không hay chú ý đến hướng dẫn học sinh tìm hiểu tiêu đề của tác phẩm. Song, đây là một nội dung vô cùng quan trọng. Bởi tiêu đề một tác phẩm thơ nơi thể hiện tinh thần cơ bản của nội dung bài thơ. Cũng có khi có những bài thơ không có đề (vô đề) có thể tác giả muốn để người đọc, qua nôi dung bài thơ, suy ngẫm và tưởng tượng mà tự hiểu. Ðề thơ có thể chỉ nên được coi như một định hướng để hiểu đúng bài thơ. 
Mặt khác tiêu đề bài thơ thường chứa đựng những thông tin quan trọng 
đối với người đọc về ý nghĩa của toàn bộ tác phẩm. Đôi khi người ta có thể không hiểu bài thơ nếu người ta không chú ý đến tiêu đề bài thơ. Cũng có khi người đọc hiểu sai bài thơ, nếu hiểu không chính xác tiêu đề của nó. Bởi khi sáng tác, bao giờ các tác giả cũng phải đặt tên cho đứa con tinh thần, của sự sáng tạo nghệ thuật một lần của mình một cái tên. Đặt tiêu đề cho tác phẩm là một cách gây ấn tượng, tạo cảm xúc cũng như kích thích sự tò mò nơi người
đọc. Vì thế khi dạy bất cứ bài thơ trữ tình nào cùng phải phân tích kỹ tiêu đề bài thơ.
4. Xác định chủ đề bài thơ. 
Chủ đề là vấn đề lớn được đặt ra trong tác phẩm, chủ đề lưu giữ tư tưởng chủ đạo của bài thơ mà nhà thơ đã khái quát hoá một vấn đề xã hội hoặc đời sống. Chủ đề tác phẩm thơ là tâm trạng của nhân vật trữ tình trước một vấn đề nào đó trong hiện thực đời sống. Hiểu được chủ đề là bước quan trọng đầu tiên để có thể phân tích được bài thơ. Khi phân tích văn học nói chung, thơ nói riêng ta cần phải nắm chủ đề của tác phẩm. Xác định được chủ đề của thi phẩm sẽ góp phần định hướng, chi phối mọi thao tác phân tích của chúng ta.
Thơ ca thuộc loại tác phẩm trữ tình, do vậy chủ đề của bài thơ luôn là cảm xúc, tâm trạng, thái độ,... của nhân vật trữ tình đối với một sự vật, sự việc, con người nào đó. Nói cách khác, thơ là sản phẩm của trái tim, tâm hồn người nghệ sĩ, nên dù muốn hay không nó phải mang hơi ấm tâm hồn, nhịp đập trái tim người nghệ sĩ.
Việc tìm hiểu chủ đề tác phẩm thơ là một hoạt động khó đối với học
sinh, nhất là học sinh khối 6,7 mặc dù các em đã được học về chủ đề, đã hiểu được khái niệm chủ đề nhưng việc xác định chủ đề không phải học sinh nào cũng có thể xác định được. Vì vậy giáo viên cần cho học sinh đọc kỹ tác phẩm, có những câu hỏi gợi mở đề học sinh biết tìm hiểu chủ đề giúp học sinh phân tích tác phẩm hiệu quả hơn.
5.Xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ:
Như đã trình bày, nhân vật trữ tình là con người đang cảm xúc, rung động trong thơ. Nội dung trữ tình trong thơ luôn được thể hiện thông qua nhân vật trữ tình. Sâu xa hơn, tác giả cũng chỉ có thể thể hiện xúc cảm của mình thông qua nhân vật trữ tình. Độc giả cần phân biệt nhân vật trữ tình và nhân vật tự sự. Sự phân biệt ấy dựa vào việc đối lập những nét đặc trưng của loại tác phẩm trữ tình và tự sự. Sự phân biệt này giúp ích rất lớn trong quá trình phân tích thơ. Nhân vật trữ tình là con người, nhưng đó là con người của tâm trạng, của cảm xúc... chứ không phải con người hành sự, đi đứng, nói năng,... như nhân vật tự sự. Do đó, khi phân tích nhân vật trữ tình ta cần phải tập trung khai thác thế giới tâm trạng của nhân vật. Phân tích thơ mà không nói được tâm trạng của nhân vật trữ tình thì coi như không phân tích được gì cả!
6. Phân tích hình tượng của bài thơ 
6.1. Phân tích nhân vật trữ tình (Chủ thể trữ tình) 
Nhân vật trữ tình là người phát ngôn trong bài thơ. Nó chia sẻ với chúng ta những điều quan sát được cũng như tư tưởng và tình cảm. Khi phân tích giáo viên cần phân biệt rõ 2 khái niệm: nhân vật trữ tình và nhân vật trong tác phẩm trữ tình. Nhân vật trong tác phẩm trữ tình là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tâm sự, cảm xúc, suy nghĩ ...của mình, là nguyên nhân trực tiếp khêu gợi nguồn cảm hứng cho tác giả. Nhân vật trữ tình không phải là đối tượng để nhà thơ miêu tả mà chính là những cảm xúc, ý nghĩ, tình cảm, tâm trạng, suy tư...về lẽ sống và con người được thể hiện trong tác phẩm. 
Khi đọc một bài thơ, trước mắt chúng ta không chỉ xuất hiện những cảnh thiên nhiên, sinh hoạt, những con người mà còn một hình tượng của một ai đó đang ngắm nhìn, rung động, suy tư về chúng, về cuộc sống nói chung. Hình tượng ấy chính là nhân vật trữ tình. Ðó là tâm hồn, nỗi niềm, tấm lòng...mà người đọc cảm nhận được qua tác phẩm thơ ca.
Phần lớn nhân vật trữ tình xuất hiện với tư cách là những tình cảm, tâm trạng, suy tư... của chính bản thân nhà thơ. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp nhân vật trữ tình không phải là hiện thân của tác giả. Do tính chất tiêu biểu, khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà thơ có thể tưởng tượng, hóa thân vào đối tượng để xây dựng nhân vật trữ tình theo qui luật điển hình hóa trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể coi đây là những nhân vật trữ tình nhập vai. Vì vậy, khi phân tích nhân vật trữ tình giáo viên cần phân biệt cho học sinh, có hai dạng thức là cái tôi trữ tình và chủ thể trữ tình ẩn. 
6.2. Phân tích hình tượng trữ tình 
Như người hoạ sĩ, nhà thơ cũng xây dựng hình tượng trữ tình thông qua
những phần (hoặc những đoạn) khác nhau. Nhà thơ xây dựng hình tượng trữ tình thông qua ngôn ngữ nghệ thuật. Thông qua ngôn ngữ nghệ thuật, nhà thơ 
nâng cao sức tưởng tượng cho người đọc. 
Người học có thể hình dung ra vị thế của nhà thơ và khát vọng, tư tưởng tình cảm, thái độ của tác giả trước cuộc sống. Nhà thơ đã vẽ bằng ngôn từ bức tranh phong cảnh thiên nhiên và cuộc sống rất sống động với đủ các gam màu, với ánh sáng, đường nét, với các cung bậc cảm xúc ở độ tuyệt đích của chúng, cùng với nhịp thơ, hơi thơ và giọng thơ thật đắm say, thật hồ hởi, thật cuồng nhiệt, khiến người đọc như cũng bị cuốn theo cái rạo rực, mê say đó. 
6.3.Phân tích hình tượng ngôn ngữ
6.3.1. Phân tích vần, nhịp điệu, âm điệu 
Tác phẩm thơ trữ tình để bộc lộ những tình cảm mạnh mẽ, những ý tập
Trung,hàm súc thì phải tìm cho mình những lời văn phù hợp với yêu cầu gây ấn tượng mạnh, không phải chỉ bằng ý nghĩa của từ mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ nữa. Hệ thống vần điệu và thanh điệu là những yếu tố cơ bản tạo nên tính nhạc của Tiếng Việt nói chung và ngôn từ văn học nói riêng. Nhạc tính này, do đặc điểm ngôn ngữ của từng dân tộc, được biểu hiện khác nhau. Trong thơ Việt Nam, tính nhạc thường được biểu hiện ở các mặt: sự cân đối, trầm bỗng, nhịp nhàng và trùng điệp. 
Vì vậy khi phân tích thơ trữ tình giáo viên cần chú ý phân tích vần thơ, cách gieo vần. Hình thức gieo vần góp phần tạo độ âm vang cho các câu thơ, nó mang giá trị nghệ thuật và giá trị biểu cảm cao. Các nhà thơ hay chọn vần để trình bày, biểu đạt tình cảm và tư tưởng. 
Bên cạnh vần, nhịp điệu có vai trò, ý nghĩa quan trọng đối với thơ trữ tình. Nó giúp nhà thơ nâng cao khả năng biểu cảm, cảm xúc. Phân tích thơ trữ tình tình không thể không chú ý đến phân tích nhịp thơ. Để xác định nhịp điệu của từng bài thơ ngoài việc đọc từng câu thơ cho ngân vang âm điệu và làm bừng sáng hình ảnh thơ.
6.3.2. Phân tích từ ngữ và biện pháp tu từ 
Tiếp xúc với một bài thơ trữ tình trước hết là tiếp xúc với hình thức nghệ thuật ngôn từ. Như thế phân tích thơ trữ tình trước hết phải xuất phát từ chính những hình thức nghệ thuật ngôn từ mà chỉ ra vai trò và tác dụng của chúng trong việc thể hiện tình cảm, thái độ của nhà thơ. Từ ngữ và các biện pháp tu từ là yếu tố quan trọng nhất của hình thức chất lượng ngôn từ. Từ ngữ trong thơ trữ tình là ngôn ngữ đời thường được nâng cấp, sửa sang, gọt dũa làm cho nó càng óng ả giàu đẹp hơn. Các biện pháp tu từ chính là những phương tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ trang điểm cho ngôn từ văn học. Tất cả những cách ấy nhằm mục đích giúp người nói, người viết có nhiều cách diễn đạt hay hơn, đẹp hơn, phong phú hơn và đạt hiệu quả cao hơn. 
Vì vậy việc phân tích từ ngữ, biện pháp tu từ trong thơ trữ tình chính là khám phá ra cái hay cái đẹp của bài thơ và hiểu hơn nội dung bài thơ cần biểu đạt. Đây cũng chính là lý do vì sao một trong những nội dung đổi mới phương pháp dạy học là đề cao phương pháp dạy học tích hợp: Học sinh vận dụng các kiến thức Tiếng Việt -Tập làm văn để tìm hiểu để phân tích thơ.
7.Bình giảng.
Bên cạnh việc phân tích tìm ra cái hay của ngôn từ, giá trị nghệ thuật của thơ, việc bình thơ cũng đóng vai trò quan trọng trong giảng dạy thơ trữ tình. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học mặc dù giáo viên là người định hướng chỉ đạo hoạt động học, học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức nhưng ta không nên bỏ qua việc bình thơ. Nhất là khi sử dụng bài giảng điện tử, giáo viên thiên về trình chiếu mà quên bước bình thơ cho học sinh, đây là một thiếu sót lớn trong quá trình giảng văn bởi bình giảng giúp các em hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm. Giáo viên bình hay còn tạo sự chú ý, thu hút người học (học sinh rất thích những lời diễn giảng hay). Công việc bình giảng nên xen kẽ trong quá trình phân tích tìm hiểu yếu tố nghệ thuật thì bài dạy sẽ hay hơn, đạt hiệu quả hơn.
Thao tác bình giảng trên lớp tỏ ra có ưu thế hơn so với phương pháp phân tích, diễn giảng theo lối truyền thống. Trước kia, giáo viên thường phải “làm thay” việc cảm thụ tác phẩm cho học sinh, cách dạy ấy không tránh khỏi những áp đặt mà học sinh cũng không dám phát biểu tranh luận với giáo viên. Còn dạy theo phương pháp bình giảng, cần phải tạo môi trường thân thiện, hướng học sinh cùng tham gia cảm thụ tác phẩm theo định hướng và những gợi ý từ giáo viên. Giáo viên cần xây dựng hệ thống câu hỏi theo hướng bình giảng, bám sát những đặc trưng thể loại của tác phẩm. Trong khâu này, giáo viên cần khuyến khích học sinh mạnh dạn phát biểu suy nghĩ riêng của bản thân. Quá trình bình giảng, giáo viên cần chọn lọc những ý thơ, đoạn thơ, chọn lọc được những từ ngữ, hình ảnh đắt giá, đúng trọng tâm để bình thật trúng ý, vừa mang tính bao quát vừa thể hiện chiều sâu trong bài giảng.
Trên đây là một số biện pháp, cách tiến hành dạy một bài thơ trữ tình hiên đại trong nhà trường THCS. Trong quá trình giảng dạy thơ trữ tình trên lớp, giáo viên là người chủ đạo, người truyền thụ kiến thức, người hướng dẫn, gợi ý để học sinh tìm hiểu, khám phá, tiếp cận tác phẩm với nhiều biện pháp khác nhau với mục đích để học sinh hiểu được các giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Giáo viên phải chủ đạo, định hướng cho học sinh tìm hiểu, phân tích tác phẩm, nhưng nhiều khi phải khuyến khích các em tinh thần phản biện, tìm tòi, phát hiện những cái đẹp, cái hay (và cả cái khiếm khuyết) của tác giả trong tác phẩm; nghĩa là phải phát huy tinh thần “dân chủ” trong giờ học, song cũng tránh để việc học sinh có thể sa đà vào những điều lệch lạc, không trọng tâm. Đồng thời, giáo viên phải sử dụng linh hoạt các hình thức dạy học: khi thì phát vấn; khi thì phân tích, tổng hợp; khi thì diễn giảng; có khi còn tạo ra những “khoảng lặng nghệ thuật” để học trò thẩm thấu tác phẩm. 
IV- VẬN DỤNG QUA BÀI “BẾP LỬA” CỦA BẰNG VIỆT 
1. Tìm hiểu tiểu sử của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm thơ.
Đối với bài thơ “ Bếp lửa”, việc hướng dẫn học sinh hiểu kỹ hoàn cảnh
ra đời của bài thơ là cần thiết, bởi hoàn cảnh đó ảnh hưởng tới tư tưởng, tình cảm của nhà thơ khi sáng tác bài thơ. 
Ngoài những thông tin trong sách giáo khoa về tác giả, hoàn cảnh ra đời của bài thơ, giáo viên có thể cung cấp cho học sinh biết thêm về những thông tin sau:
- Bài thơ "Bếp lửa" được viết năm 1963, lúc nhà thơ Bằng Việt đang học năm thứ hai tại Đại hoc Tổng hợp quốc gia Kiev (Ukraina, hồi đó còn thuộc Liên Xô). Nhà thơ Bằng Việt kể lại. “Những năm đầu theo học Luật tại đây tôi nhớ nhà kinh khủng. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi dậy sớm đi học, tôi hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai củ sắn cho cả nhà”. Trong hoàn cảnh đó nhà thơ Bằng Việt đột nhiên nhớ lại thói quen bao nhiêu năm ấy của bà, những kỷ niệm ấu thơ như một cuốn phim cứ lần lần hiện lạiNhà thơ Bằng Việt thú nhận: “Tôi chẳng nhớ được gì ngoài tiếng hú còi tàu và tiếng chim tu hú kêu khăc khoải. Rồi lại cũng tiếng chim tu hú ấy vẫn kêu suốt những mùa vài chín dọc những triền sông dọc những bờ đê của cả vùng quê tôi, những năm tôi ở cùng bà”. 
- Bài thơ như một câu chuyện thật về những nhân vật có thật.
Nhà thơ kể “Bố mẹ tôi ở trong Huế 18 năm và sinh tôi trong ấy. Sau khi cách mạng nổ ra cả nhà chuyển ra Bắc, tản cư về một vùng quê ở chân núi Ba Vì – Hà Tây. Sau khi cách mạng thành công bố tôi chưa có việc gì làm cho dù ông là một trí thức ngành luật. May sao trong lúc khó khăn đó bác tôi có cỗ xe ngựa chuyên chạy tuyến Phùng (Đan Phượng, Hà Tây) đi Hà Nội nên bố tôi nhận lời mời của bác đi phụ xe kiếm tiền nuôi gia đình. Những năm đói 1945 – 1946 ấy người còn đói nữa huống hồ ngựa nên chuyện tôi nói trong thơ “Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy” không có gì là sai hay cường điệu hoàn cảnh cả”.  
Ngoài việc giới thiệu thêm về hoàn cảnh ra đời bài thơ, giáo viên cung cấp cho học sinh những tư liệu quý, những hình ảnh về tác giả, bàbằng những phương tiện dạy học, như máy chiếu, tranh ảnh
Với bước làm đó, học sinh sẽ hiểu đúng về tác giả và đánh giá đúng được giá trị của bài thơ.
2. Đọc và quan sát bước đầu để hiểu bài thơ.
Bài thơ “ Bếp lửa” là một bài thơ hay, khi đọc giáo viên cần lưu ý học sinh đọc đúng và diễn cảm từng câu, từng hình ảnh, từng nhịp điệu trong bài thơ. Bài thơ vừa kể, vừa tả với giọng thủ thỉ tâm tình nên đọc chậm và lắng đọng để thể hiện đúng cung bậc tình cảm xúc động và bồi hồi của nhà thơ.
Giáo viên cần đọc mẫu một số đoạn và hướng dẫn cách đọc diễn cảm
cho học sinh. Từ việc đọc để học sinh bước đầu hiểu nội dung của bài thơ và
xác định được cảm xúc chủ đạo của bài thơ.
 Ví dụ:-Ba câu thơ đầu đọc chậm, nhấn mạnh ở các hình ảnh “chờn vờn”
“ấp iu”
 - Đoạn kể về kỷ niệm tuổi thơ sống với bà đọc với giọng thủ 
thỉ, tâm tình.
	 - Khi nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời bà đọc chậm thể hiện sự lắng đọng đặc biệt nhấn mạnh những từ ngữ được lặp đi lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ.
3. Phân tích tiêu đề bài thơ. 
Để giúp học sinh tìm hiểu tiêu đề bài thơ, giáo viên nêu câu hỏi: ?Nhan đề bài thơ có ý nghĩa như thế nào?
Học sinh sẽ thảo luận và đưa ra những ý kiến khác nhau về ý nghĩa nhan đề của bài thơ. Giáo viên tổng hợp ý kiến của học sinh và khái quát lại một số ý sau:
- Bếp lửa là một hình ảnh quen thuộc, bình dị, gắn với cuộc sống của mỗi gia đình.
- Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ gắn với những kỉ niệm thời thơ ấu của người cháu với bà, với gia đình, với quê hương, đất nước.
- “Bếp lửa” hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho tình bà cháu thiêng liêng, sâu nặng; biểu tượng của hơi ấm tình người, sự yêu thương, sẻ chia, tình yêu con người và cuộc sống. Bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người. 
4. Xác định chủ đề bài thơ. 
Để tìm hiểu chủ đề của bài thơ “Bếp lửa”, giáo viên cần cho học sinh 
đọc kỹ tác phẩm, sau đó hướng dẫn học sinh tìm hiểu tư tưởng chủ đạo của bài thơ bằng câu hỏi sau:
Bài thơ viết về nội dung gì? Nhà thơ muốn thể hiện tư tưởng, tình cảm gì trong bài thơ?
Bài thơ viết về hình ảnh bếp lửa - hình ảnh người bà vừa thiêng liêng vừa cao đẹp, thể hiện tình cảm bà cháu thật sâu đậm. Qua đó để nhà thơ thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn đối với với bà. Khơi gợi trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, quê hương, đất nước, với những người đã tô màu cho tuổi thơ trong sáng của ta.
5. Xác định hình tượng thơ 
 Hình tượng thơ trong bài “Bếp lửa” là cặp hình tượng sóng đôi: Cháu - Bà, trong đó Bà là trung tâm. Nhưng để làm nổi bật ấn tượng sâu nặng về bà, thi sĩ còn khai triển một tương quan đa dạng với nhiều hình tượng khác. Đó chính là Bếp lửa, hình tượng bếp lửa vừa có nghĩa thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng.
+ Hình tượng có ý nghĩa thực: Bếp lửa là một hình ảnh quen thuộc, bình dị, gắn với cuộc sống của mỗi gia đình. Bếp lửa đã gắn với tuổi thơ của Bằng Việt khi sống với bà.
+ Hình tượng có ý nghĩa biểu tượng: “Bếp lửa” hình ảnh biểu tượng về người bà, người bà tần tảo, chắt chiu, chịu thương chịu khó. “Bếp lửa” là cái cụ thể còn ngọn lửa là trìu tượng. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa, truyền lửa - ngọn lửa của sự sống, của niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. “Bếp lửa” biểu tượng của hơi ấm tình người, sự yêu thương, sẻ chia, tình yêu con người và cuộc sống. 
Giáo viên có thể nêu câu hỏi: ?Hình tượng trung tâm trong bài thơ là hình tượng nào? Để làm nổi bật hình tượng trung tâm tác giả đã tập trung miêu tả hình tượng nào?Ý nghĩa của hình tượng đó?
Vậy là, nhìn vào hình tượng thơ, có thể thấy một cấu trúc tinh vi và sống động. Từ mối tương quan giữa 

File đính kèm:

  • docSang_kien_kinh_nghiem_Bien_phap_day_tho_tru_tinh_20150725_031820.doc