Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 - Lê Văn Hòa
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
Trong dạy - học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí quan trong. Có thể coi viêc dạy - học và giải toán là “lửa thử vàng” của dạy - học toán. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh. Và trong chừng mực nào đó biết suy nghĩ năng động sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh.
Dạy học giải toán có lời văn ở tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau:
-Giúp học sinh luyện tập củng cố vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành đã học, rèn luyện kĩ năng tính toán bước tập dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kĩ năng thực hành vào thực tiễn.
-Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi.
-Rèn luyện cho học sinh những đặc tính và phong cách làm việc của người lao động như: Cẩn thận, chu đáo, cụ thể.
ố học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết, các, suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo. Mục tiêu nói trên được thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt là môn toán. Môn này có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động của con người. Môn toán là ''chìa khoá'' mở của cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, nó giúp con người phát triển toàn diện, nó góp phần giáo dục tình cảm, trách nhiệm, niềm tin và sự phồn vinh của quê hương đất nước. Trong dạy - học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí quan trọng. Có thể coi việc dạy - học và giải toán là '' hòn đá thử vàng'' của dạy - học toán. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh. Dạy học giải toán có lời văn ở bậc tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau: - Giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành đã học, rèn luyện kỹ năng tính toán bước tập dược vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn. - Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận, thúc đẩy và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. - Rèn luyện cho học sinh những đặc tính và phong cách làm việc của người lao động, như: cẩn thận, chu đáo, cụ thể..... Ở học sinh lớp 5, kiến thức toán đối với các em không còn mới lạ, khả năng nhận thức của các em đã được hình thành và phát triển ở các lớp trước, tư duy đã bắt đầu có chiều hướng bền vững và đang ở giai đoạn phát triển. Vốn sống, vốn hiểu biết thực tế đã bước đầu có những hiểu biết nhất định. Tuy nhiên trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, yêu cầu đặt ra khi giải các bài toán có lời văn cao hơn những lớp trước, các em phải đọc nhiều, viết nhiều, bài làm phải trả lời chính xác với phép tính, với các yêu cầu của bài toán đưa ra, nên thường vướng mắc về vấn đề trình bày bài giải: sai sót do viết không đúng chính tả hoặc viết thiếu, viết từ thừa. Một sai sót đáng kể khác là học sinh thường không chú ý phân tích theo các điều kiện của bài toán nên đã lựa chọn sai phép tính. Với những lý do đó, trong học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng, việc học toán và giải toán có lời văn là rất quan trọng và rất cần thiết. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng, hiểu sâu được bản chất của vấn đề cần tìm, mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận toán lôgic thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán. Từ những căn cứ đó tôi đã chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5” CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI *Thuận lợi: - Bản thân đã nhiều năm đứng lớp, tiếp xúc được nhiều đối tượng học sinh, hiểu và nắm được tâm lí của những học sinh yếu. Đồng thời qua nhiều năm giảng dạy lớp 5 nên đã tích luỹ được một số kinh nghiệm trong việc hướng dẫn và giúp đỡ học sinh học tập môn Toán ở tiểu học. - Bản thân đã nhận thức đúng ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học Toán nên tìm hiểu kĩ mục tiêu, nội dung bài dạy rồi soạn bài, lên lớp truyền đạt đầy đủ những nội dung mà mục tiêu yêu cầu, kết hợp nhiều phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. - Trong giảng dạy tôi có mở rộng nội dung bài dạy cho phù hợp với nhiều đối tượng học sinh, học tập thực hành phù hợp để ôn tập kiến thức và kĩ năng trong từng giai đoạn học tập của học sinh. Nhìn chung, học sinh có hứng thú học tập, tất cả đều hiểu bài và làm bài tập tốt, biết cách trình bày bài giảng và giải đúng kết quả. *Khó khăn: Ở một số tiết học, học sinh chưa thật sự hiểu bài, kĩ năng làm bài ở một số em còn hạn chế, các em còn hiểu bài một cách máy móc. Một số em chưa có thói quen làm việc tự giác, tích cực, độc lập chủ động và sáng tạo, một số em không thích học môn này nên không chăm chỉ, chỉ học theo kiểu đối phó. Tuy vậy, trong lớp nếu chúng ta thực hiện những tiết dạy đại trà không thể đáp ứng được cho từng đối tượng học sinh, nếu chỉ quan tâm đến học sinh chưa đạt chuẩn và học sinh đạt chuẩn( Học sinh ở mức 1, mức 2) thì học sinh hoàn thành tốt và học sinh hoàn thành xuất sắc( Học sinh ở mức 3, mức 4) dễ chán không phát huy hết khả năng học của các em, bản thân giáo viên không kịp chương trình. Do đó làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy đó là công việc cần phải làm. - Đa số học sinh xem môn toán là môn học khó khăn, dễ chán. - Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều : một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu bài toán, dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. - Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn nhanh chóng quên các dạng bài toán, vì vậy khi áp dụng vào giải các bài toán có lời văn còn gặp nhiều khó khăn. Ngay từ đầu năm học, sau khi nhận lớp và ôn tập, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh ; về môn Toán kết quả cụ thể như sau: Tổng số học sinh: 24 học sinh. STT Môn Toán Học sinh đạt Tỉ lệ % 1 Học sinh biết trình bày và giải toán có lời văn thành thạo 2 8,3 2 Học sinh vận dụng kiến thức giải toán có lời văn tương đối tốt 5 20,8 3 Bước đầu học sinh biết giải toán có lời văn tuy nhiên cách thực hiện còn chậm nhiều bài toán với dạng đề khó chưa biết cách giải 11 45,9 4 Học sinh chưa biết trình bày và giải toán có lời văn 6 25 Qua kết quả trên tôi thấy rất lo ngại và suy nghĩ làm thế nào để nâng chất lượng môn Toán. Từ đó tôi luôn tìm tòi và phân tích sự yếu kém của học sinh là do nguyên nhân như: - Có nhiều chỗ hỏng về kiến thức, kĩ năng từ lớp dưới. - Tiếp thu kiến thức kĩ năng còn chậm. - Phương pháp học tập chưa tốt, ý thức tự giác chưa cao. - Năng lực tư duy còn yếu. - Do đặc thù của địa phương là một trường biên giới, 100% học sinh đều là người dân tộc thiểu số. Vì vậy vốn từ và ngôn ngữ giao tiếp tiếng phổ thông còn hạn chế. - Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc học tập của con em mình, còn phó mặc cho giáo viên và nhà trường vì gia đình còn nghèo, phụ huynh còn phải lo kinh tế gia đình. 2. Các phương pháp dùng để giải toán có lời văn 2.1 Phương pháp trực quan: Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình ảnh và hiện tượng cụ thể, trong khi đó kiến thức của môn toán lại có tính trừu tượng và khái quát cao. Sử dụng phương pháp này giúp học sinh có chỗ dựa cho hoạt động tư duy, bổ sung vốn hiểu biết, phát triển tư duy trừu tượng và vốn hiểu biết. Đối với học sinh lớp 5, việc sử dụng đồ dùng trực quan ít hơn các lớp trước và bớt dần đi việc đồ vật thật. Ví dụ: Khi dạy giải toán ở lớp 5, giáo viên có thể cho học sinh quan sát mô hình hoặc hình vẽ, sau đó lập tóm tắt đề bài rồi mới đến bước chọn phép tính. 2.2 Phương pháp gợi mở-vấn đáp: Đây là phương pháp cần thiết và thích hợp với học sinh ở tiểu học, rèn luyện cho học cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, tạo niềm tin và khả năng học tập của từng học sinh. Để sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên cần lựa chọn hệ thống câu hỏi chính xác và rõ ràng, nhờ thế mà học sinh có thể nắm được ngay nội dung kiến thức từ đầu và giúp các em dễ dàng trả lời các câu hỏi. 2.3 Phương pháp thực hành và luyện tập: Sử dụng phương pháp này thực hành luyện tập kiến thức, kĩ năng giải toán từ đơn giản đến phức tạp (chủ yếu ở các tiết luyện tập). Trong quá trình học sinh luyện tập, giáo viên có thể phối hợp các phương pháp như: Gợi mở, vấn đáp và giảng giải minh hoạ. 2.4 Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng: Giáo viên sử dụng sơ đồ đoạn thẳng để biểu diễn các đại lượng đã cho trong bài và mối liên hệ phụ thuộc giữa các đại lượng đó. Giáo viên phải chọn độ dài đoạn thẳng một cách thích hợp để học sinh dẽ dàng quan sát và thấy được mối liên hệ phụ giữa các đại lượng tạo ra hình ảnh cụ thể để giúp học sinh suy nghĩ, tìm tòi giải toán. 2.5 Phương pháp giảng giải - minh hoạ: Khi cần giảng giải - minh hoạ, giáo viên cần nói gọn, rõ và kết hợp với gợi mở - vấn đáp. Giáo viên nên phối hợp giảng giải với hoạt động thực hành của học sinh (Ví dụ: Bằng hình vẽ, mô hình, vật thật...). Để học sinh phối hợp nghe, nhìn và làm, nên hạn chế sử dụng phương pháp này vì sẽ làm hạn chế khả năng tư duy lôgic và suy nghĩ sáng tạo của học sinh. CHƯƠNG III: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Một số biện pháp để nâng cao chất lượng giải các bài toán có lời văn ở lớp 5 Muốn phân tích được tình huống, lựa chọn phép tính thích hợp, các em cần nhận thức được: Cái gì đã cho, cái gì cần tìm, mối quan hệ với cái đã cho và cái phải tìm. Trong bước đầu giải toán việc nhận thức và việc lựa chọn phép tinh với các em là một việc khó. Để giúp các em khắc phục khó khăn này, cần dựa vào hoạt động cụ thể của các em với vật thật, với mô hình, dựa vào hình vẽ, các sơ đồ toán học...Nhằm làm cho các em hiểu khái niệm “gấp” với phép nhân, khái niệm “một phần...” với phép chia trong tương quan giũa các mối quan hệ với bài toán. Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn phép tính thích hợp được quy định không chỉ bởi các dữ kiện mà còn bởi các câu hỏi. Với cùng các dữ kiện như nhau có thể dặt các câu hỏi khác nhau, do đó việc lựa chọn phép tính cũng khác nhau. Việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều kiện căn bản để giải đúng các bài toán đó. Những trẻ em trong giai đoạn đầu khi mới giải toán chưa nhận thức được đầy đủ chức năng của câu hỏi trong bài toán. Để rèn luyện cho các em suy luận đúng, cần giúp các em nhận thức được chức năng quan trọng của câu hỏi trong bài toán. Câu hỏi của bài toán, đôi khi nêu cho các em bài toán vui không giải được. Chẳng hạn: “Trên cành cây có 10 con chim. Bay đi 2 con chim. Hỏi trong lồng còn mấy con chim?”. Có em sẽ nhầm và trả lời là 8 con chim. Lúc đó giáo viên sẽ giải thích để học sinh nhận ra cái sai trong câu hỏi của bài toán. Đối với bài toán có lời văn ở lớp 5, chủ yếu là các bài toán hợp. Giải các bài toán hợp cũng có nghĩa là giải quyết các bài toán đơn. Mặt khác các dạng toán đều đã được học ở các lớp trước bao gồm hai nhóm chính như sau: Nhóm 1: Các bài toán hợp mà quá trình giải không theo một phương pháp thống nhất cho các bài toán đó. Nhóm 2: Các bài toán điển hình là các bài toán mà trong quá trình giải có phương pháp riêng cho từng dạng bài toán. Trong chương trình toán lớp 5 có những dạng toán điển hình sau: - Tìm số trung bình cộng. - Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đo. - Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó. - Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ của hai số đó. - Bài toán liên quan đến đại lượng tỉ lệ thuận, tỉ lệ nghịch. Người giáo viên phải nắm vững các dạng toán để có cách giải phù hợp. Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. hình thành kĩ năng giải toán khó hơn nhiều so với hình thành kĩ năng tính. Vì bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu để rồi áp dụng, mà đòi hỏi phải nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm ý nghĩa của phép tính, đòi hỏi khả năng suy nghĩ độc lập của học sinh, đòi hỏi phải biết tính đúng. Các bước để giải một bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng đã được đề cập ở một số cách về phương pháp giải toán ở bậc tiểu học. Ở đây tôi rút ra một số kinh nghiệm hướng dẫn: Phần đạt toán có lời văn ở lớp 5. Ở lớp 5, việc học phân số, học số thập phân, học về các đơn vị đo đại lượng...Cũng được kết hợp học các phép tính, học giải toán được kết hợp một cách hữu cơ để có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Việc dạy cho học sinh nắm được các phương pháp chung để giải toán được chú trọng ngay từ khi các em giải bài toán đầu tiên ở bậc tiểu học và sau này vẫn được thường xuyên quan tâm. Các em luôn được rèn luyện trong việc tìm hiểu đề toán, trong viẹc phân tích cái gì đã cho, cái gì phải tìm trong việc suy nghĩ tìm ra cách giải và trong việc thực hiện cách giải. Đặc biệt các em thường xuyên sử dụng việc tóm tắt bài toán bằng sơ đồ hình vẽ. Sau đây là một số ví dụ về các dạng toán có lời văn ở lớp 5: Ví dụ 1: Bài toán về đại lượng tỉ lệ thuận. Một ô tô cứ một 100 km thì hết 12,5 l xăng. Hỏi ô tô đi quãng đường dài 120 km thì cần bao nhiêu lít xăng? Bài giải Số lít xăng cần để đi 1 km là: 12,5 : 100 = 0,125 (l) Số lít ô tô cần để đi quãng đường 60 km là: 0,125 x 120 = 15 (l) Đáp số : 15 lít xăng Ví dụ 2: Toán chuyển động đều. Một người đi bộ hết quãng đường dài 11,52 km với vận tốc 4,5 km/giờ. Hỏi người đó đã đi hết bao nhiêu giờ và bao nhiêu phút? Bài giải Thời gian người đi bộ đi hết quãng đường là: 11,52 : 4,5 = 2,5 (giờ) = 2 giờ 30 phút. Đáp số: 2 giờ 30 phút. Ví dụ 3: Bài toán về tỉ lệ nghịch. Một đơn vị bộ đội có 45 người đã chuẩn gạo đủ ăn trong 15 ngày. Nhưng sau 5 ngày đơn vị đó nhận tiếp thêm 5 người nữa. Hãy tính xem số gạo còn lại đủ cho đơn vị ăn bao nhiêu ngày nữa, biết rằng các xuất ăn đều như nhau. Bài giải Số gạo còn lại đủ cho 45 người ăn trong số ngày là: 15 – 5 = 10 (ngày) Số người của đơn vị sau khi tăng là: 45 + 5 = 50 (người) Vì số gạo còn lại đủ cho 45 người ăn trong 10 ngày, nên nếu 1 người ăn số gạo đó thì sẽ đủ ăn trong số ngày là: 10 x 45 = 450 (ngày) Vậy 50 người ăn số gạo còn lại trong số ngày là: 450 : 50 = 9 (ngày) Đáp số: 9 ngày Ví dụ 4: Bài toán về nhân số thập phân với số thập phân. Một khu vườn hình chữ nhật có chiều dài 27,18 m, chiều rộng 9,4 m. Tính chu vi và diện tích khu vườn đó? Tóm tắt: Chiều dài: 27,18 m Chiều rộng: 9,4 m Chu vi: ? m; diện tích: ? m2 Bài giải Chu vi của khu vườn là: (27,18 + 9,4) x 2 = 72,96 (m) Diện tích khu vườn là: 27,18 x 9,4 = 255,492 (m2) Đáp số: Chu vi: 72,96 m Diện tích: 255,492 m2 Ví dụ 5: Bài toán về tỉ số phần trăm. Ngày thường mua 5 quả bóng bay hết 10.000 đồng . Cũng với số tền đó trong ngày lễ chỉ mua được 4 quả bóng bay như thế. Hỏi so với ngày thường thì giá bóng bay trong ngày lễ tăng hay giảm bao nhiêu phần trăm? Bài giải Giá tiền 1 quả bóng bay ngày thường là: 10000 : 5 = 2000 (đồng) Giá tiền 1 quả bóng bay trong ngày lễ là: 10000 : 4 = 2500 (đồng) Tỉ số phần trăm của giá bóng bay trong ngày lễ so với ngày thường là: 2500 : 2000 = 1,25 = 125% Coi giá bóng bay trong ngày thường là 100% thì giá bóng bay trong ngày lễ hơn ngày thường là: 125% – 100% = 25% Đáp số: 25% Đối với các bài toán có lời văn như trên, giáo viên nên khuyến khích học sinh tự nêu ra các giả thiết đã biết, cái cần phải tìm cách tóm tắt bài toán và tìm cách giải. Các phép tính giải chỉ là khâu thứ yếu mang tính kĩ thuật. Một số bài nâng cao dành cho học sinh khá giỏi: Đối với những đối tượng học sinh đã giải được và giải thành thạo các bài toán đơn cơ bản, thì việc đưa ra hệ thống bài tập nâng cao là rất quan trọng và cần thiết để cho học sinh có điều kiện phát huy năng lực trí tuệ của mình, vượt xa khỏi tư duy cụ thể mang tính chất ghi nhớ và áp dụng một cách máy móc trong công thức. Dưới đây là một số dạng bài nâng cao mà tôi đã thực hiện trong các tiết để nâng cao tính hiểu biết, đồng thời bồi dưỡng học sinh giỏi. Ví dụ 1: Nếu Kiên và Hiền cùng làm một công việc thì hoàn thành công việc trong 10 ngày. Sau 7 ngày cùng làm thì Kiên nghỉ việc , còn Hiền phải làm nốt phần việc còn lại trong 9 ngày nữa . Hãy tính xem nếu mỗi người làm riêng thì sau bao nhiêu ngày sẽ hoàn thành công việc đó? Bài giải Cách 1: Kiên và Hiền cùng làm trong 1 ngày được công việc. Kiên và Hiền cùng làm sau 7 ngày được: (công việc) Phần việc còn lại do Hiền làm là: (công việc) Mỗi ngày Hiền làm được là: (công việc) Số ngày Hiền làm một mình để xong công việc là: (ngày) Mỗi ngày Kiên làm được là: (công việc) Số ngày Kiên làm một mình hết công việc là: (ngày) Đáp số: Hiền: 30 ngày Kiên: 15 ngày Cách 2: Coi công việc là 10 phần bằng nhau thì Kiên và Hiền cùng làm được 7 phần , nên còn lại 3 phần đó (10-7=3) là do Hiền làm tiếp trong 9 ngày nữa. 3 phần làm trong 9 ngày. 1 phần làm trong: 9 : 3 = 3 (ngày) 10 phần làm trong: 3 x 10 = 30 (ngày) Vậy Hiền làm riêng thì sẽ xong công việc: Giả sử Hiền chỉ làm tiếp trong 3 ngày nữa thì mới thực hiện thêm 1 phần việc, còn 2 phần việc lẽ ra Kiên phải làm trong 3 ngày. Như thế Kiên phải làm nhanh gấp đôi Hiền. Vì vậy số ngày Kiên làm riêng để làm xong công việc là: 30 : 2 = 15 (ngày) Đáp số: Hiền: 30 ngày Kiên: 15 ngày Ví dụ 2: Có một số lít dầu và một số can. Nếu mỗi can chứa 5 l dầu thì còn thừa 5 l. Nếu mỗi can chứa 6 l dầu thì có 1 can không chứa dầu. Hỏi có bao nhiêu can, bao nhiêu lít dầu? Bài giải Nếu mỗi can chứa 5 l dầu thì còn thừa 5 l. Nếu mỗi can chứa 6 l dầu thì có một can không chứa dầu, Nghĩa là thêm 6 l dầu nữa thì không còn thừa một can nào nữa. Do đó số dầu để chứa đủ mỗi can 6 l sẽ nhiều hơn số dầu để chứa mỗi can 5 l là: 5 + 6 = 11 (l) 6 l dầu nhiều hơn 5 l dầu là: 6 – 5 = 1 (l) Số can có là: 11 : 1 = 11 (can) Có 11 can, mỗi can chứa 5 l còn thừa 5 thì số dầu có là: 5 x 11 + 5 = 60 (l) Đáp số: 11 can 60 l dầu Ví dụ 3: Lớp 5A tham gia học may, ngày thứ nhất có 1/6 số học sinh của lớp và 2 em, ngày thứ hai có 1/4 số học sinh còn lại và 1 em tham gia, ngày thứ ba có 2/5 số học sinh còn lại sau hai ngày và 3 em, ngày thứ tư có 1/3 số còn lại và 1 em tham gia. Cuối cùng còn lại 5 em chưa tham gia. Hỏi lớp 5A có bao nhiêu học sinh? Tóm tắt: ? em Số học sinh: Ngày 1: số HS và 1 em Ngày 2: số HS còn lại và 1 em Ngày 3: số HS còn lại và 3 em Ngày 4: số HS còn lại và 1 em 5 em Bài giải Số học sinh còn lại sau khi tham gia ngày thứ ba là: (5 + 1) : 2 x 3 = 9 (em) Số học sinh còn lại sau ngày thứ hai là: (9 + 3 ) : 3 x 5 = 20 (em) Số học sinh còn lại sau ngày thứ nhất là: (20 + 1) :3 x 4 = 28 (em) Số học sinh lớp 5A là: (28 +2 ) : 5 x 6 = 36 (em) Đáp số: 36 em 2. Hiệu quả của sáng kiến Từ những việc làm thiết thực nêu trên đã có một số kết quả nổi bật trong dạy học môn Toán như sau: - Học sinh tích cực học tập, lớp học phát biểu sôi nổi hơn - Đa số học sinh đều nắm vững được kiến thức một cách có hệ thống và vận dụng kiến thức đã học để giải các dạng bài tập, thực hành thành thạo các phép tính, biết trình bày bài giải của bài toán có lời văn, học sinh yếu kém khắc phục được những kiến thức bị hỏng, tiếp thu được những kiến thức mới tạo sự hưng phấn trong học tập, giúp học sinh khá giỏi có điều kiện phát huy năng lực học toán của mình, góp phần vào việc khắc phục học sinh yếu kém ở tiểu học. Đặc biệt, chất lượng của môn Toán được nâng lên rõ rệt. Cuối năm học kết quả cụ thể như sau: Tổng số: 24 học sinh lớp 5A1 Trường PTDTBT Tiểu học Phú Lũng. STT Môn Toán Học sinh đạt Tỉ lệ % 1 Học sinh biết trình bày và giải toán có lời văn thành thạo 7 29,1 2 Học sinh vận dụng kiến thức giải toán có lời văn tương đối tốt 9 37,5 3 Bước đầu học sinh biết giải toán có lời văn tuy nhiên cách thực hiện còn chậm nhiều bài toán với dạng dề khó chưa biết cách giải 8 33,4 4 Học sinh chưa biết trình bày và giải toán có lời văn 0 0 Từ những kết quả thống kê nêu trên, tôi t
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_giai_toan_co_loi_v.doc