Sáng kiến kinh nghiệm - Một vài kinh nghiệm dạy tốt môn Tin học lớp 6 - Năm học 2010-2011 - Nguyễn Trung Dũng
IV. Nội dung nghiên cứu
1. Giáo viên có kế hoạch bài dạy, xây dựng ý tưởng, thiết kế bài dạy phù hợp:
- Ngay từ những bài học đầu tiên trong chương trình Tin học, giáo viên phải xác định rõ cho học sinh nhận biết các bộ phận của máy tính và tác dụng của các bộ phận đó bằng cách cho học sinh quan sát các thiết bị ngay trong giờ giảng lý thuyết.
Ví dụ: Bài làm quen với máy tính. Khi giáo viên giới thiệu bộ phận chuột máy tính (mouse), giáo viên phải mô tả trên thân chuột máy tính có những nút nào, chức năng của các nút đó, tay đặt lên chuột máy tính như thế nào. Khi trình bày vấn đề này cần có thiết bị kèm theo cho học sinh vừa quan sát, và thực hiện.
Giáo viên biết kết hợp giữa giờ lý thuyết và thực hành sao cho phù hợp, không nên xem nhẹ giờ dạy lý thuyết thì mới áp dụng vào thực hành tốt được, khi học sinh thực hành tốt thì sẽ khắc sâu và củng cố kiến thức lý thuyết.
Phßng gi¸o dôc vµ ®µo t¹o huyÖn lôc yªn Trêng thcs lª hång phong Tªn ®Ò tµi MỘT VÀI KINH NGHIỆM DẠY TỐT MÔN TIN HỌC LỚP 6 Gi¸o viªn: NguyÔn Trung Dòng Tæ: To¸n – Lý Trêng: THCS Lª Hång Phong N¨m häc: 2010 – 2011 Đề tài: MỘT VÀI KINH NGHIỆM DẠY TỐT MÔN TIN HỌC LỚP 6 I. Đặt vấn đề: Công nghệ thông tin (CNTT) là một trong các phương tiện quan trọng nhất của sự phát triển, đang làm biễn đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục của thế giới trong đó có Việt Nam. Chúng ta đang ở trong thời đại thông tin kỹ thuật số, Thời đại Internet. Ngày nay, kiến thức và kĩ năng CNTT đã trở thành nhu cầu thiết yếu với mọi công dân toàn cầu, đối với mọi lứa tuổi và mọi lĩnh vực. Không những thế thông qua Tin học (cụ thể là Internet) một cách gián tiếp học sinh có thêm nhiều cơ hội tiếp thu kiến thức mới. Chính vì vậy, chương trình giáo dục phổ thông mới, Tin học sẽ là một môn học chính khóa, những năm gần đây ở cấp THCS Tin học là môn học tự chọn ở tất cả các lớp của bậc học. Môn tin học ở bậc THCS bước đầu giúp học sinh làm quen với một số kiến thức ban đầu về CNTT như: Một số bộ phận của máy tính, một số thuật ngữ thường dùng, rèn luyện một số kỹ năng sử dụng máy tính, Hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao động hiện đại như: + Góp phần hình thành và phát triển tư duy thuật giải. + Bước đầu hình thành năng lực tổ chức và xử lý thông tin. + Có ý thức và thói quen sử dụng máy tính trong hoạt động học tập, lao động xã hội hiện đại. + Có thái độ đúng khi sử dụng máy tính và các sản phẩm Tin học. + Bước đầu hiểu khả năng ứng dụng CNTT trong học tập. + Có ý thức tìm hiểu CNTT trong các hoạt động xã hội. Mỗi phần mềm có trong chương trình có những tác dụng nhất định : + Phần mềm soạn thảo văn bản: Học sinh ứng dụng từ các môn Ngữ Văn để trình bày đoạn văn bản sao cho phù hợp, đúng cách. Ứng dụng soạn thảo văn bản để soạn thảo bài văn và các môn học khác. + Phần mềm vẽ: Học sinh ứng dụng trong môn Mỹ thuật, học được từ môn mỹ thuật để vẽ những hình ảnh sao cho sinh động, hài hoà thẩm mĩ. + Phần mềm tập gõ bàn phím bằng mười ngón Mario: Giúp HS luyện tập cách làm việc với bàn phím một cách chuẩn xác nhanh chóng và hiệu quả cao. + Trong chương trình tin học THCS thì một số bài học được phân bố xen kẽ giữa các bài vừa học, vừa chơi. Điều đó sẽ rèn luyện cho học sinh óc tư duy sáng tạo trong quá trình chơi những trò chơi mang tính bổ ích giúp cho học sinh thư giãn sau những giờ học căng thẳng ở lớp II. Cơ sở lý luận: Chỉ thị số 58-CT/TW của bộ chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đã chỉ rõ: - “Phát triển nguồn nhân lực cho CNTT là yếu tố then chốt và có ý nghĩa quyết định đối với việc ứng dụng và phát triển CNTT” - “Ứng dụng và phát triển CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, là phương tiện chủ yếu để đi tắt đón đầu rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước. Quyết định 331/QĐ - TTg của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chương trình phát triển nguồn nhân lực về CNTT đến năm 2010 đã đề ra: - Phổ cập các kiến thức và kĩ năng sử dụng máy tính và Internet đến 100% cán bộ, công chức và viên chức, 50% học sinh THCS Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục đã chỉ rõ: “Tổ chức tốt việc dạy và học Tin học ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học nhằm phổ cập Tin học trong nhà trường”. II. Cơ sở thực tiễn: * Một số thuận lợi và khó khăn khi thực hiện chuyên đề ở trường THCS Lê Hồng Phong. 1. Thuận lợi: * Nhà trường: - Nhà trường đã tạo điều kiện để học sinh có thể học từ khối lớp 6, tạo điều kiện sắm sửa máy móc, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn Tin học, đảm bảo cho học sinh có thể thực hành trên phòng máy. - Lu«n tham mu víi c¸c cÊp l·nh ®¹o bæ sung thªm c¸c phuong tiÖn vµ thiÕt bÞ d¹y häc ®¶m b¶o cho häc sinh ®îc häc tin häc mét c¸ch tèt nhÊt * Học sinh: Vì là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới nên học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành. Häc sinh muèn t×m tßi nh÷ng kiÕn thøc míi mµ nhiÒu khi trong s¸ch vë kh«ng cã (hoÆc cã nh÷ng rÊt Ýt) chÝnh v× ®iÒu ®ã mµ c¸c em cã høng thó häc tËp h¬n. 2. Khó khăn: * Nhà trường: - Chưa có phòng học lý thuyết (có lắp sẵn các thiết bị phục vụ dạy học) dành cho bộ môn nên việc tổ chức giờ học lý thuyết còn khó khăn. - Số máy để phục vụ cho những tiết thực hành còn hạn chế, không đảm bảo được 2 học sinh/ 1 máy * Học sinh: - Đời sống kinh tế của gia đình của nhiều học sinh còn khó khăn nhiều học sinh không có máy vi tính để học ở nhà đa phần là học trên lớp. - Nhiều em còn mải chơi khi học trên lớp nên dẫn tới tình trạng nhiều em không lắm chắc kiến thức. - NhiÒu em kh«ng chó träng ®Õn viÖc häc ë trêng còng nh ë nhµ v× vËy khi ®Õn trêng c¸c em m¶i ch¬i kh«ng chó träng vµo viÖc häc. - C¸c em cßn m¶i ch¬i c¸c trß ch¬i trªn m¹ng nªn bá bª c«ng viÖc häc cña m×nh. *Thực trạng Trước khi thực hiện chuyên đề, tôi đã khảo sát học sinh lớp 6A4 thông qua giờ dạy lý thuyết, dạy thực hành. Khi tổng hợp kết quả thu được: Mức độ thao tác Trước khi thực hiện chuyên đề Số HS Tỷ lệ Thao tác nhanh, đúng 5 15.1% Thao tác đúng 9 27.2% Thao tác chậm 14 42.4% Chưa biết thao tác 5 15.1% IV. Nội dung nghiên cứu 1. Giáo viên có kế hoạch bài dạy, xây dựng ý tưởng, thiết kế bài dạy phù hợp: - Ngay từ những bài học đầu tiên trong chương trình Tin học, giáo viên phải xác định rõ cho học sinh nhận biết các bộ phận của máy tính và tác dụng của các bộ phận đó bằng cách cho học sinh quan sát các thiết bị ngay trong giờ giảng lý thuyết. Ví dụ: Bài làm quen với máy tính. Khi giáo viên giới thiệu bộ phận chuột máy tính (mouse), giáo viên phải mô tả trên thân chuột máy tính có những nút nào, chức năng của các nút đó, tay đặt lên chuột máy tính như thế nào. Khi trình bày vấn đề này cần có thiết bị kèm theo cho học sinh vừa quan sát, và thực hiện. Giáo viên biết kết hợp giữa giờ lý thuyết và thực hành sao cho phù hợp, không nên xem nhẹ giờ dạy lý thuyết thì mới áp dụng vào thực hành tốt được, khi học sinh thực hành tốt thì sẽ khắc sâu và củng cố kiến thức lý thuyết. - Giáo viên nên tận dụng tối đa những phương tiện sẵn có trong nhà trường như máy chiếu, tận dụng các thiết bị máy tính không hoạt động làm đồ dùng dạy học, máy tính hoạt động dược phục vụ cho môn Tin học áp dụng vào trong giảng dạy lý thuyết để học sinh dễ quan sát và nhận biết, giúp cho buổi học lý thuyết hiệu quả hơn. - Để những tiết thực hành có hiệu quả và tiết kiệm được thời gian, ngay từ đầu năm tôi đã phân nhóm học sinh, thứ tự nhóm tương ứng với số thứ tự máy. Mỗi nhóm có 2 học sinh trong đó có một học sinh khá hơn và một học sinh yếu hơn. Việc làm này giúp cho giáo viên quản lý tốt tiết thực hành và học sinh có thể tự học lẫn nhau khi giáo viên không trực tiếp hướng dẫn đến tất cả các em. Ngoài ra mỗi nhóm thực hành cố định trên một máy tính có thể xem đó là máy tính của mình và học sinh có trách nhiệm tự bản quản để phục vụ cho các tiết học sau. Sau mỗi tiết thực hành, kết quả thực hành của học sinh được lưu lại trên máy từ đó giáo viên có thể kiểm tra kết quả của các nhóm sau một học kỳ hoặc năm học. Khi dạy thực hành, giáo viên giao bài tập cho học sinh một cách cụ thể, rõ ràng và kết hợp cả những kiến thức của bài học trước, hướng dẫn chung cho cả lớp, trong mỗi nhóm đã phân có những học sinh khá giỏi sẽ lĩnh hội kiến thức nhanh hơn và giúp đỡ các em học sinh yếu hơn trong nhóm của mình, giáo viên chỉ kiểm tra việc thực hành của các nhóm và từ đó sẽ có những yêu cầu cao hơn cho những học sinh khá hơn tự khám phá đưa ra kết luận cho cả lớp nhận xét và giáo viên kết luận. Ví dụ: Dạy bài tạo bảng giáo viên giao bài tập thực hành đã có trong sách giáo khoa hoặc những bài tập ở ngoài sau đó hướng dẫn (theo nhóm) trực tiếp trên máy chiếu cho học sinh cả lớp quan sát thao tác và lời nói của GV. Trong khi thực hành, giáo viên kiểm tra kết quả nếu nhóm học sinh nào chưa thực hành được, giáo viên hướng dẫn trực tiếp cho học sinh khá và học sinh khá đó có nhiệm vụ hướng dẫn lại cho bạn học sinh yếu hơn. 2. Hệ thống các bài tập thực hành, các bài tập phù hợp với nội dung của bài giảng, liên hệ với một số môn học khác trong chương trình học của các em. Các bài tập không quá dài, nâng dần từ mức đơn giản đến phức tạp, ngoài ra giáo viên cũng phải kết hợp những bài đã học trước để học sinh ôn lại và vận dụng vẽ một cách có hệ thống. Trong mỗi bài thực hành cần có những yêu cầu cao hơn để phát huy tính sáng tạo, tìm tòi và học sinh tự lĩnh hội kiến thức. Ví dụ: Dạy bài thực hành: “Làm quen với soạn thảo văn bản”. Đối với các thao tác mở, lưu văn bản tôi đặc biệt đi sâu việc lưu văn bản cho các em. Vì công việc này thường liên quan đến nhiều bài tiếp theo. Tránh các tình trạng học sinh lưu chồng lên các văn bản khác làm mất dữ liệu có trên máy tính Để làm được việc này tôi thường cho học sinh thực hiện nhiều lần hai thao tác (lưu và mở văn bản) theo nhiều cách và đưa ra kết luận. 3. Trong giờ thực hành giáo viên nên tạo sự thi đua giữa các nhóm bằng cách phân công các nhóm làm bài thực hành, sau đó các nhóm nhận xét, chấm điểm (dưới sự chỉ dẫn của giáo viên) để tạo được sự hào hứng học tập và sáng tạo trong quá trình thực hành. Kiểm tra việc thực hành thường là những học sinh yếu hơn trong nhóm để động viên khuyến khích khi thực hành tốt, hay khắc phục những lỗi kịp thời cho các em. Trong mỗi bài thực hành cần có những yêu cầu cao hơn để phát huy tính sáng tạo, tìm tòi và học sinh tự lĩnh hội kiến thức. Cuối mỗi giờ thực hành cần phải giành thời gian kiểm tra việc thực hiện của các em để có kế hoạch bổ sung cho những tiết học tiếp theo. 4. Đối với những giờ học học lý thuyết ngoài những kiến thức đã có trong sách giáo khoa, cần cho học sinh tự lĩnh hội những vấn đề khác không có trong sách giáo khoa. Với mỗi thao tác (mỗi lệnh) có thể thực hiện được bằng nhiều cách. Để làm được việc này tôi đặc biệt quan tâm đến việc trình bày kiến thức lý thuyết một cách trục quan thông qua máy chiếu. Trong mỗi giờ học lý thuyết tôi thường thao tác trên máy học sinh quan sát, nhận xét và đưa ra kết luận, giáo viên chỉ việc tóm tắc và đưa ra kết luận cuối cùng. Có lúc cần đưa ra những thao tác mà học sinh thường mắc phải và nhắc nhỡ các em cần tránh những lỗi này để khắc sâu kiến thức. 5. Tận dụng những nguồn tài nguyên sẵn có của máy vi tính, hoặc truy cập mạng để tìm kiếm thông tin, tìm kiếm tài nguyên trên Internet phục vụ cho quá trình dạy và học. Phát huy tối đa những phần mềm sẵn có trong chương trình sách giáo khoa giúp cho các em thấy được tầm quan trọng của Tin học và máy tính điện tử trong thời đại hiện nay. Máy tính không chỉ phục vụ cho môn tin học nhưng qua đó ta có thể học từ máy tính những môn học khác có hiệu quả như phần mềm Solar System 3D Simulator (học địa lý), phần mềm Từ Điển Lạc Việt (học ngoại ngữ) giúp cho các em càng thêm yêu thích môn học. Ngoài ra tôi còn sưu tầm và giới thiệu một số trò chơi có ích để rèn luyện về cách sử dụng chuột (cờ caro), luyện ngón khi sử dụng bàn phím (Mario Typing), phần mềm luyện tư duy, tính toán, nhanh nhạy, giải trí (Solitare, minesweeper) giúp cho các em có hứng thú vừa học vừa chơi và tự khám phá phần mềm rèn luyện kỹ năng sử dụng máy tính. 6. Giáo viên có kế hoạch bồi dưỡng để nâng cao kiến thức bản thân đáp ứng được những yêu cầu đổi mới, cập nhật thông tin một cách đầy đủ, chính xác. Muốn có giờ dạy đạt hiệu quả cao, bản thân mỗi giáo viên dạy Tin học nhận thức được cần phải có kế hoạch bồi dưỡng Tin học cho bản thân bằng cách tự tìm tòi, tham khảo các tài liệu có liên quan và có thể hỏi các đồng nghiệp của trường bạn. Mỗi giáo viên cần phải biết phục hồi sửa chữa những lỗi đơn giản thường xảy ra để có máy tính kịp thời phục vụ cho tiết dạy. Bên cạnh tìm hiểu kiến thức về Tin học, giáo viên cũng phải tìm hiểu các kiến thức khác như văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội để tự nâng cao nhận thức của bản thân. V. Kết quả: Qua quá trình áp dụng vào giảng dạy tin học lớp 6A4, so sánh với bảng tổng hợp trước đó đã thu được kết quả như sau: Mức độ thao tác Trước khi thực hiện chuyên đề Sau khi thực hiện chuyên đề Tỷ lệ tăng, giảm Số Hs Tỷ lệ Số Hs Tỷ lệ Thao tác nhanh, đúng 5 15.1% 10 30.2% +15.1% Thao tác đúng 9 27.2% 17 51.5% +24.3% Thao tác chậm 14 42.4% 6 18.1% -24.3% Chưa biết thao tác 5 15.1% 0 0% -15.1% Từ bảng kết quả trên cho thấy các biện pháp áp dụng vào việc dạy học Tin học lớp 6 đã trình bày ở trên các em không những nắm chắc kiến thức mà còn thấy các em học tập phấn khởi hơn, tiếp thu bài nhanh hơn, có chất lượng thực sự. Để học sinh thao tác tốt ngoài việc thực hiện trên lớp giáo viên còn hướng dẫn cho học sinh thực hành thêm và tự khám phá kiến thức ở nhà (nếu ở nhà có máy tính). Đối với học sinh ở mỗi vùng miền khác nhau có điều kiện tốt hơn mỗi giáo viên có những biện pháp thích hợp tùy theo điều kiện của học sinh và của nhà trường. VI. Kết luận: Đối với học sinh (khối 6) Việc tiếp xúc với máy vi tính con bỡ ngỡ với nhiều em. Trong chương trình số tiết thực hành vẫn còn ít nên việc rèn luyện kỹ năng thực hành, khám phá máy cho các em vẫn còn là một vấn đề khó giải quyết. Để thực hiện được các công việc trên đòi hỏi mỗi giáo viên cần phải tìm tòi sáng tạo cách dạy, cách học tạo sự hứng thú tiếp thu bài. Tìm tòi sáng tạo cách dạy, cách học tạo sự hứng thú tiếp thu bài . Yêu nghề, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ Thăm lớp dự giờ, hội thảo phương pháp giảng dạy các bộ môn khác. Tích cực tham mưu với nhà trường để tăng cường nâng cấp máy, trang thiết bị dạy học. Thực hiện tốt các quy định của ngành đề ra. VII. Đề xuất: 1. Nhà trường: Tạo điều kiện để học sinh được truy cập Internet trong nhà trường có sự quản lý của giáo viên tránh những tình trạng học sinh lạm dụng Internet tham gia vào các trò chơi không có ích ảnh hưởng đến việc học. Quán triệt trong học sinh việc sử dụng Internet để chơi Game hoặc truy cập vào những trang web không có ích (tại các dịch vụ Internet). Tham mu víi c¸c cÊp l·nh ®¹o t¹o ®iÒu kiÖn gióp ®ì nhµ trêng trong vÊn ®Ò bæ sung thªm thiÕt bÞ phôc vô cho gi¶ng d¹y. 2. Đối với cấp trên: Tạo điều kiện tối đa cho nhà trường trong việc trang trí trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy Tin học và ứng dụng CNTT. Thêng xuyªn më c¸c líp tËp huÊn, båi dìng cho gi¸o viªn ®Ó gi¸o viªn ®îc n©ng cao chuyªn m«n vµ nghiÖp vô. Tæ chøc cho gi¸o viªn gi÷a c¸c trêng giao lu häc hái kinh nghiÖm gi¶ng d¹y VIII. Tài liệu tham khảo: Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS Môn Tin học – Bộ Giáo Dục N©ng cao chÊt lîng gi¶ng d¹y tin häc NXB Gi¸o Dôc Tin häc THCS quyÓn 1. IX. Mục lục: 1. Đặt vấn đề Trang 2-3 2. Cơ sở lý luận: Trang 3-4 3. Cơ sở thự tiễn Trang 4-5 4. Nội dung nghiên cứu Trang 6-10 5. Kết quả nghiên cứu Trang 10 6. Kết luận Trang 11 7. Đề xuất Trang 11 - 12 8. Tài liệu tham khảo Trang 13 Ngêi viÕt ®Ò tµi: NguyÔn Trung Dòng NhËn xÐt, ®¸nh gi¸, xÕp lo¹i cña Héi ®ång khoa häc nhµ trêng
File đính kèm:
- Bai_14_Soan_thao_van_ban_don_gian.doc