Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 học Tiếng Việt

1. Cơ sở lí luận

Từ những đổi mới của chương trình tiểu học, đòi hỏi phải đổi mới chương trình môn Tiếng Việt. Chương trình Tiểu học thực hiện đổi mới đồng bộ về: Mục tiêu giáo dục - Nội dung và phương pháp dạy học - Cách thức đánh giá học tập của học sinh. Theo đặc trưng của môn Tiếng Việt tập trung vào sự hình thành và phát triển kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết, góp phần vào quá trình hình thành các giá trị mới như: Năng lực tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức và thực hành vận dụng kiến thức đó theo năng lực bản thân. Như chúng ta đã biết môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ đó được thể hiện qua 4 kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết. Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học

 

doc17 trang | Chia sẻ: Khải Trần | Ngày: 26/04/2023 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 học Tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 chấm hỏi, dấu chấm than. Khi đọc biết lên giọng, hạ giọng ở những câu văn, bài thơ, hơn nữa là đọc phân vai.
+ Học sinh hiểu được nội dung văn bản và thể loại, từ đó có thái độ, tình cảm đúng trong cuộc sống.
Thông qua dạy học giúp các em có điều kiện tiếp cận và nắm bắt các môn học, hiểu các văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh được tri thức, tự tin khi giao tiếp nhằm góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, phát triển toàn diện về mọi mặt Đức - Trí - Thể - Mĩ cho học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu
 	Là những bài học trong chương trình phân môn Tiếng Việt – Công nghệ giáo dục lớp 1 tập 1, 2, 3.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nội dung của đề tài, tôi đã sử dụng một số phương pháp cơ bản sau:
- Tổng hợp lý luận thông qua các tài liệu, sách giáo khoa và thực tiễn dạy học của lớp 1D – khối 1 – Trường Tôi.
- Đánh giá quá trình dạy Tiếng Việt – CGD từ những năm trước.
- Tiến hành khảo sát chất lượng học sinh.
- Đúc rút kinh nghiệm qua quá trình nghiên cứu.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Trong chương trình môn Tiếng việt – Công nghệ giáo dục lớp 1.
 II. NỘI DUNG
 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1. Cơ sở lí luận
Từ những đổi mới của chương trình tiểu học, đòi hỏi phải đổi mới chương trình môn Tiếng Việt. Chương trình Tiểu học thực hiện đổi mới đồng bộ về: Mục tiêu giáo dục - Nội dung và phương pháp dạy học - Cách thức đánh giá học tập của học sinh. Theo đặc trưng của môn Tiếng Việt tập trung vào sự hình thành và phát triển kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết, góp phần vào quá trình hình thành các giá trị mới như: Năng lực tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức và thực hành vận dụng kiến thức đó theo năng lực bản thân. Như chúng ta đã biết môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ đó được thể hiện qua 4 kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết. Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình, vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho kĩ năng “đọc” nói chung và “đọc đúng” nói riêng. Một kĩ năng quan trọng hàng đầu của bậc Tiểu học. Tập đọc là môn học công cụ, là chìa khoá, là phương tiện để học sinh tiếp nhận tri thức loài người. Tập đọc giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp tinh tế của nghệ thuật ngôn từ. Tập đọc, đặc biệt là đọc đúng giúp các em học được cách nói, cách viết một cách chính xác, trong sáng có nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào việc rèn luyện kĩ năng đọc mà còn phát triển cho học sinh vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú. Từ đó, các em sẽ học tốt các môn học khác. Đọc đúng góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển năng lực cho học sinh. Những bài tập đọc trong chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 1- CGD là những câu chuyện gần gũi, những bài văn, bài thơ hay. Chính vì thế mà các em có vốn văn học phong phú hơn. Cũng như các môn học khác ở các cấp học, môn Tập đọc đòi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp: Lấy học sinh làm trung tâm, học sinh giữ vai trò chủ đạo trong quá trình học tập, thầy thiết kế - trò thi công. Tự tìm tòi để hiểu nội dung, phát hiện kiến thức dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của người thầy. Với những yêu cầu quan trọng như vậy thì người thầy phải là người tổ chức linh hoạt chuẩn bị được nhiều tình huống phong phú cho học sinh. Trong chương trình tiểu học, các bài tập đọc của lớp 1 đã được chọn lọc kĩ càng, cung cấp, bồi dưỡng cho các em lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu người lao động, yêu người thân, hiểu và yêu thêm lịch sử Việt Nam. 
2. Cơ sở thực tiễn:
- Năm học 2015 - 2016, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 1D với tổng sĩ số là 20 em, trong đó:
+ Học sinh đọc lưu loát: 05 em
+ Học sinh đọc chưa nhanh, còn hay vấp, ngọng: 13 em
+ Học sinh đọc chậm: 02 em ( Nhận thức chậm)
Với đặc điểm của lớp như trên, tôi cũng gặp những khó khăn nhưng cũng có phần thuận lợi như sau:
2.1. Thuận lợi:
- Học sinh có đầy đủ SGK và đồ dùng học tập.
- Đa số các em đều ngoan, lễ phép và biết nghe lời.
- Phần lớn phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học của con em mình.
- Hầu hết các em đều biết các chữ cái khi vào đầu lớp 1.
- Đa số các em tiếp thu nhanh.
2.2. Khó khăn:
- Là chương trình Tiếng Việt mới nên giáo viên còn mất nhiều thời gian nghiên cứu, đọc tài liệu.
- Cách phát âm của một số chữ cái không giống với chương trình hiện hành ( VD: âm /k/ theo chương trình hiện hành đọc là “ ca” nhưng theo chương trình mới lại đọc là “ cờ”, hay âm /gi/ theo chương trình hiện hành đọc “di” nhưng theo chương trình mới đọc là “ dờ”)
- Một số em còn nói ngọng, phát âm chưa chuẩn và chưa thực sự chú ý đến lời nói trong giao tiếp hàng ngày sao cho đúng ngữ pháp.
- Một số phụ huynh học sinh chưa có thời gian cũng như một số ít phụ huynh không biết chữ nên không thể giúp đỡ các em trong việc học ở nhà, và chương trình Tiếng Việt 1 – CGD là chương trình mới nên phụ huynh còn gặp nhiều khó khăn khi con cái có thắc mắc muốn cha mẹ giải đáp thì phụ huynh còn lúng túng khó giải đáp.
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 
1. Thực trạng dạy và học Tiếng Việt 1 - CGD ở trường Tiểu häc
Năm 2015 – 2016 tôi được phân giảng lớp 1D với sĩ số lớp 20 gồm 11 nam và 9 nữ (trong đó có 2 em tiếp thu chậm). Từ khi nhận lớp tháng 8 năm 2015 đến tháng 5 năm 2016 tôi đã nghiên cứu, tìm hiểu và thấy được một số thực trạng như sau:
1.1. Về phía giáo viên.
a. Ưu điểm:
- Giáo viên có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề và luôn trăn trở về phương pháp dạy học Tiếng Việt 1 – CGD.
- Giáo viên đi đúng phương pháp, sách thiết kế. 
- Giáo viên có ý thức trách nhiệm với học sinh, giảng dạy nhiệt tình, chữa bài nghiêm túc, khách quan, tỉ mỉ.
- Giáo viên luôn có ý thức vận dụng đổi mới phương pháp dạy học.
- Giáo viên nắm chắc tiến trình tiết dạy, đi đúng mục tiêu của bài.
b. Tồn tại: 
- Một số giáo viên còn lẫn chương trình cũ với chương trình Tiếng Việt 1 – CGD.
- Ba quyển sách thiết kế phục vụ cho giáo viên là ba quy trình khác nhau vì vậy rất mất thời gian cho giáo viên nghiên cứu đi đúng tiến trình.
- Một số đồng chí giáo viên diễn đạt còn lúng túng chưa sáng tạo.
- Một số giáo viên trẻ chưa có kinh nghiệm trong giảng dạy.
1.2. Về phía học sinh:
- Khảo sát đầu năm ( Tháng 9)
TSHS
Đọc tốt
Đọc khá
Đọc trung bình
Đọc yếu
Đọc ngọng
27
3
5
8
4
2
- Kĩ năng nói và viết chưa thực sự tốt.
- Vẫn có em đọc còn ngọng ( l/n, thanh hỏi, thanh ngã...)
- Một số em yếu khi học sang phần nguyên âm đôi hoặc âm đệm ( vì một kiểu vần lại có cách đánh vần riêng) còn nắm chưa chắc.
1.3. Về chương trình Tiếng Việt 1 – CGD
- Phương pháp dạy học mới khơi gợi tính sáng tạo, tự giác thiếp thu bài, tạo sự hứng thú giúp học sinh làm chủ kiến thức.
- Phương pháp mới giúp học sinh nắm chắc kiến thức ngữ âm, chất lượng môn học Tiếng Việt của học sinh đã được nâng lên nhiều so với trước.
- Lượng kiến thức nặng so với học sinh lớp 1 (VD: Ngay bài đầu tiên, nhiều học sinh chưa biết chữ cái nhưng đã phải viết như dạng chính tả. Trong quá trình học, các em còn phải phân biệt được tiếng có âm đầu; tiếng có âm chính; tiếng có âm đệm, âm chính; tiếng có âm đệm, âm cuối Trước đây, học hết 8 tuần, các em thuộc bảng chữ cái và có thể ghép vần thành âm, tiếng. Nay, hết 6 tuần, học sinh đã phải đọc những bài dài tới 30 tiếng, hay có bài học bốn vần hay có khi học sáu vần một ngày đối với HS lớp một là quá nhiều)
- Nhiều bài đọc không gần gũi với học sinh nên học sinh khó nhớ.
1.4. Những lỗi thường thấy của học sinh lớp1 khi học phân môn tiếng Việt.
a. Lỗi về phát âm:
* Sai về phụ âm đầu
- Đây là lỗi mà nhiều em mắc phải, nguyên nhân này có thể do ảnh hưởng của tiếng địa phương, do nói theo bạn nhiều thành quen( bạn phát âm sai), do bản thân các em chưa kiên trì luyện tập, do bộ phận phát âm chưa hoàn chỉnh vì vậy dẫn đến phát âm không chuẩn từ đó làm cho người nghe hiểu sai ý muốn nói.
VD: “nòng nọc” ý muốn nói đến con “nòng nọc” nhưng lại phát âm là “lòng lọc” làm cho người nghe hiểu sang cái lòng được lọc, dẫn đến sai ý muốn nói.
 * Sai về dấu thanh
- Lỗi về dấu thanh là lỗi HS cũng hay bị mắc nhưng không nhiều bằng lỗi về phụ âm đầu, tuy nhiên lỗi về dấu thanh rất khó sửa, cần nhiều thời gian và kiên trì luyện tập.
VD: “ củ sả” ý muốn nói đến củ sả để nấu ăn, nhưng HS phát âm thành “ cụ sạ” dẫn đến người nghe không hiểu được nghĩa muốn nói.
* Sai về vần
Lỗi này thường mắc ở một số em do thói quen sử dụng từ ngữ của vùng miền ( rượu – riệu, gãy – gẫy...)
VD: “ cô Thanh” ý muốn nói đến cô tên Thanh nhưng HS lại phát âm lại đọc là “ cô Thăn” làm cho người nghe hiểu lầm sang tên cô là Thăn.
1.5. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng đọc sai của học sinh tiểu học hiện nay là:
Từ việc điều tra, tìm hiểu, tôi thấy việc đọc sai của học sinh lớp 1 chủ yếu tập trung ở một số nguyên nhân sau:
Một là: Các em chưa hiểu một cách sâu sắc, cặn kẽ về nghĩa của tiếng, của từ, của câu.
Hai là: Chưa ý thức được phải phát âm chuẩn thì người nghe mới hiểu hết nghĩa mà mình muốn diễn đạt.
Ba là: Do bản thân các em đọc sai lại chưa kiên trì, tự giác tập luyện để sửa sai.
2. Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 qua phân môn Tiếng Việt 1 - CGD
Từ việc điều tra tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến đọc sai của học sinh lớp 1 theo tôi để khắc phục những hạn chế trên cần chú ý đến một số biện pháp sau:
Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh phát âm 
Hướng dẫn cách phát âm là phương pháp quan trọng hàng đầu, đòi hỏi người giáo viên phải có những hiểu biết, kinh nghiệm và cả kĩ năng hướng dẫn tốt. Khi hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng lời nói mạch lạc, đơn giản để học sinh dễ hiểu và có thể tự mình phát âm đúng. Đối với những âm, vần, tiếng dễ nhầm lẫn, giáo viên cần phải so sánh, phân tích cụ thể cách phát âm (môi – răng – lưỡi, đường dẫn hơi, điểm thoát hơi)
VD: Khi học sinh sai lẫn âm l / n giáo viên cần hướng dẫn:
+ Âm l: lưỡi uốn cong, bật đầu lưỡi cho hơi thoát ra mạnh, dứt khoát.
+ Âm n: Lưỡi ép sát lợi trên, cho hơi thoát ra đường mũi, sau đó mở miệng cho hơi thoát ra trên mặt lưỡi, luồng hơi có thể kéo dài. Với những học sinh vẫn chưa phát âm được, giáo viên có thể yêu cầu các em dùng hai ngón tay, bóp mũi lại để đọc âm l (đối với âm n, khi bóp mũi lại sẽ không thể đọc được).
	VD: HS sai lẫn ở những âm đầu vần và cuối vần “ac” đọc thành “at”:, giáo viên cần hướng dẫn:
+ ac: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi.
+ at: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi.
	VD: HS sai lẫn dấu thanh (gặp ở những học sinh có hệ thống bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh) giáo viên cần hướng dẫn: 
- Những tiếng có thanh hỏi / thanh nặng: đi ngủ - đi ngụ, cử tạ - cự tạ, củ sả - cụ sạ)
+ Tiếng có thanh hỏi: giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh phát âm trầm, hơi luyến giọng, lên cao, kéo dài hơi. Có thể kèm theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên trên. 
+ Tiếng có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt khoát (không kéo dài). Khi phát âm có thể làm động tác gật đầu. 
- Những tiếng có thanh sắc – thanh ngã (em bé ngã – em bé ngá, lọ mỡ - lọ mớ, ghế gỗ - ghế gố)
+ Những tiếng có thanh ngã đọc nhấn mạnh, hơi kéo dài, luyến giọng, lên cao giọng.
+ Những tiếng có thanh sắc: Đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có thanh ngã, hơi ngăn, đọc nhanh, không kéo dài. Bằng cách hướng dẫn (như một vài ví dụ nêu trên) học sinh có thể dễ dàng phát âm và đạt hiệu quả cao.
	Biện pháp 2: Giáo viên đọc mẫu phải chuẩn
	Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em luôn coi thầy, cô giáo của mình là thần tượng, là chuẩn mực. Đặc điểm tâm lí của học sinh ở lứa tuổi này là hay bắt chước, hay làm theo. Các em thích mình giống như thầy cô và người lớn. Các em thường “bắt chước” cô từ cách ăn mặc, đi đứng, cho đến lời nói, cử chỉ, chữ viết Học sinh lớp 1 hằng ngày đến lớp chủ yếu được nghe giọng của giáo viên. Vì vậy giáo viên cố gắng cho học sinh nghe đúng, nghe hay thì việc học sinh đọc sai, viết sai từng bước được khắc phục. Muốn học sinh phát âm tốt thì giáo viên phải phát âm chuẩn xác. 
	Tuy vậy, nếu sử dụng phương pháp làm mẫu không khéo léo, sẽ dẫn đến tình trạng “lạm dụng”, tiết học sẽ trở nên nhàm chán và không phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Vì thế, giáo viên chỉ nên sử dụng phương pháp này khi thấy thật cần thiết, đó là khi các em học sinh dù qua hướng dẫn, không thể tự mình phát âm đúng. Khi vận dụng phương pháp đọc mẫu cho học sinh, giáo viên cần rèn luyện cho các em biết kết hợp cả kĩ năng nghe và nhìn (nghe tiếng phát âm và quan sát môi, miệng, lưỡi của cô). Như thế học sinh sẽ phát âm đúng và dễ dàng hơn. Người giáo viên khi đọc mẫu, không đơn giản chỉ là phát ra âm tiết mà cần biết phối hợp với thuật “hình môi” nhằm hướng dẫn các em phát âm chuẩn xác hơn. Học sinh nếu chỉ nghe mà không nhìn miệng cô đọc thì việc phát âm sẽ không đạt hiệu quả cao, vì trong môn Tiếng Việt 1_CGD việc quan sát môi cô khi phát âm âm mới là rất quan trọng.
	Biện pháp 3: Khuyến khích học sinh phát hiện và điều chỉnh lẫn nhau
	Hoạt động dạy – học luôn luôn được thực hiện trong mối quan hệ tương tác: giáo viên với học sinh, học sinh với giáo viên, học sinh với học sinh. Một tiết học diễn ra nếu thiếu sự tương tác giữa học sinh với học sinh thì tiết học sẽ trở nên đơn điệu, không phát huy được tích cực, chủ động của học sinh, đồng thời bầu không khí lớp học sẽ thiếu sự nhẹ nhàng, tự nhiên; người giáo viên cũng không thể hiện rõ được vai trò là người chỉ dẫn để giúp các em tự tìm tòi, lĩnh hội kiến thức mà trong môn Tiếng Việt 1 – CGD thì phương trâm là “ thầy thiết kế - trò thi công”. Trong quá trình rèn kĩ năng phát âm cho học sinh, giáo viên luôn đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ tương tác giữa học sinh với học sinh. Giáo viên cần chú trọng việc rèn cho các em có kĩ năng nghe – nhận xét – sửa sai giúp bạn và tự sửa sai cho mình. Các em sử dụng các kĩ năng ấy thường xuyên trong các tiết học trở thành một thói quen, tạo nề nếp học tập tốt. Qua quá trình nghe để nhận xét, sửa sai giúp bạn, sẽ giúp học sinh tự điều chỉnh, sửa sai cho mình. Đồng thời còn rèn luyện cho các em tác phong mạnh dạn, tự tin trong góp ý, trao đổi, trình bày ý kiến, góp phần hình thành nhân cách. Thực hiện thường xuyên như thế sẽ tạo được bầu không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện, đảm bảo được mục tiêu của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực.
	Biện pháp 4: Rèn luyện tính kiên trì cho học sinh
	Rèn cho học sinh có tính kiên trì là nhiệm vụ quan trọng. Bản thân người giáo viên cũng phải rất kiên trì để hình thành tính cách ấy cho học sinh. Khi có được lòng kiên trì, học sinh sẽ vượt qua những khó khăn để đạt tới cái đích cao nhất. Trong dạy phát âm cho học sinh, khi các em phát âm chưa đúng, phải điều chỉnh nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu, các em sẽ dễ chán nản, không muốn luyện tập. Khi ấy, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn, làm mẫu, yêu cầu học sinh phát âm nhiều lần, thường xuyên động viên khích lệ học sinh bằng những lời khen “Em đã đọc tốt hơn rồi, em cố gắng thêm tí nữa nhé”, “em đã đọc được rồi đấy, em cố gắng lên nhé”được động viên như vậy, học sinh sẽ không nản lòng vì nghĩ rằng mình sẽ làm được, sắp làm được, bạn làm được thì mình cũng sẽ làm đượctừ đó học sinh sẽ quyêt tâm hơn. Trong số những học sinh phát âm sai, có một phần nhỏ học sinh do lười biếng, không muốn rèn luyện mình nên chỉ phát âm một cách nhanh chóng, đại khái cho xong, dần dần thành quen nên phát âm không chuẩn xác. Với những đối tượng này, giáo viên phải thật nghiêm khắc, khen – chê đúng mực để các em thấy rằng mình có khả năng học tập rất tốt, mình cần phải thể hiện hết khả năng của mình.
	Biện pháp 5. Quan tâm rèn luyện cho học sinh ở mọi nơi, mọi lúc
	Để giúp học sinh phát âm chuẩn, giáo viên không chỉ hướng dẫn, sửa sai cho các em trong giờ học môn Tiếng việt mà cần luôn theo dõi, uốn nắn cho các em cả trong các tiết học khác, trong giờ chơi, trong hoạt động tập thể Bởi vì những lúc vui chơi là lúc các em sử dụng lời nói một cách tự nhiên nhất. Người giáo viên cần chú ý quan sát để phát hiện những lỗi phát âm của các em và kịp thời sửa chữa, đồng thời tạo cho học sinh thói quen phát âm chuẩn dù ở bất cứ nơi đâu.
	Biện pháp 6. Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát âm cho học sinh
	Giáo viên có thể cùng bàn bạc và thảo luận với phụ huynh nêu ra cách đọc một số chữ khó để phụ huynh nắm bắt được, từ đó tạo điều kiện rèn luyện phát âm cho các em khi ở nhà. Với một số em cá biệt về phát âm, giáo viên có thể gặp trực tiếp phụ huynh trao đổi và động viên họ nên chọn mua những quyển truyện tranh trong đó có lời đối thoại nhiều phụ âm mà học sinh hay nhầm lẫn và dành thời gian đọc, kể cho các em nghe, dạy em kể lại chuyện. Ngoài ra cần nhắc nhở phụ huynh thường xuyên chú ý tới lời nói, cách phát âm của mọi người trong gia đình, giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của người thân trong gia đình là môi trường giáo dục cho các em khi ở nhà. Như vậy việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường đều tạo môi trường phát âm chuẩn mực giúp các em ngấm dần một cách tự nhiên khi đọc phát âm đúng. Một số trường hợp, học sinh phát âm sai không phải do hệ thống phát âm của các em chưa hoàn chỉnh, cũng không phải do các em chưa hiểu cách phát âm mà là do thói quen sử dụng từ ngữ địa phương (rượu - riệu). Đối với những trường hợp này, trong mỗi bài dạy, khi có từ ngữ hoặc chủ đề liên quan, giáo viên cần quan tâm tới các em thường nói sai, giải thích cho các em hiểu đúng nghĩa của từ cũng như cách dùng từ đúng, từ đó giúp các em tránh phát âm sai theo cách nói của địa phương. Ngoài ra, người giáo viên hoàn toàn có thể thông qua họp phụ huynh học sinh, qua phiếu phối hợp giáo dục giữa giáo viên và gia đình để hướng cho phụ huynh học sinh có cách dùng từ đúng để sửa đổi.
	Biện pháp 7. Tuyên dương, khuyến khích học sinh.
	Trong năm học 2015 – 2016 tôi đã áp dụng các biện pháp nêu ở trên để áp dụng rèn đọc cho các em đồng thời cũng thường xuyên kiểm tra đánh giá kết hợp với biện pháp tuyên dương, khuyến khích các em, từ đó các em rất hứng thú, vui vẻ, tạo được không khí thoải mái, là động lực cho các em tiếp tục rèn luyện, sửa chữa các lỗi mà các em mắc phải. Khi các em có tiến bộ, dù nhỏ nhất tôi cũng dùng những lời động viện để khuyến khích các em ( VD: “ em đã phát âm chuẩn hơn hôm qua rồi, cố lên em nhé”, 
“ em đã có tiến bộ nhiều hơn rồi, cô khen em”...), cũng có thể bằng hình thức nhận xét vào vở của các em khi chấm vở chính tả, với em hay viết sai lỗi l/n mà bây giờ đã viết sai ít hơn tôi cũng vẫn khen em đó (VD: “em viết bài có tiến bộ, đã ít sai lỗi l/n hơn rồi, em cần phát huy” ....). Không chỉ khen những em đã biết sửa lỗi mà tôi còn khen cả những em đã giúp bạn phát âm đúng, để từ đó các em có động lực giúp bạn hơn, hứng thú với công việc đó hơn.
* Kết quả nghiên cứu
Sau một thời gian tìm hiểu nguyên nhân và áp dụng những biện pháp về việc rèn đọc cho HS lớp 1 qua phân môn Tiếng Việt 1 – CGD. Để biết được kết quả bước đầu cũng như những phương pháp mình thực nghiệm thực tế, tôi đã cho học sinh của lớp mình thực hành đọc một số bài bất kỳ.
Sau khi kiểm tra tôi có kết quả như sau:
95% các em đã đọc được hết bài. Tuy nhiên vẫn có em đọc nhỏ, đọc chậm và có em vẫn sai lỗi phát âm, nhưng nhiều em đã có sự tiến bộ trong cách đọc cũng như số lượng mắc lỗi phát âm của các em đã giảm.
Cụ thể là:
Căn cứ vào bài kiểm tra tôi thống kê như sau:
TSHS
Đọc tốt
Đọc khá
Đọc trung bình
Đọc yếu
Đọc ngọng
27
12
9
4
1
1
Tổng số học sinh: 20 em
- Số học sinh có kỹ năng đọc đúng ở mức:
+ Tốt: 12 em = 44,4%
+ Khá: 9 em = 33,3 %
+ TB: 04 em = 14,8%
+ Yếu: 01 em ( tiếp thu chậm) = 3,75 %
+ Đọc ngọng: 1 em = 3,75%
	Từ kết quả đạt được cuối năm học, tôi thấy khả năng đọc cũng như lỗi phát âm của các em được cải thiện đáng kể, chất lượng đọc được nâng lên, học sinh hứng thú học tập, tạo không khí thoải mái khi học, học mà chơi, chơi mà học.
Bằng sự nhiệt tình trong công tác nghiên cứu giảng dạy, tôi đã vận dụng sáng tạo những phương pháp đã học để hướng dẫn kèm cặp đối tượng học sinh lớp 1 để giúp các em không chỉ viết tốt mà còn đọc tốt, đọc chuẩn, đọc không sai lỗi.
Tuy rằng số lượng các em đọc tốt vẫn còn hạn ch

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_doc_cho_h.doc
Giáo án liên quan