Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp đối với học sinh lớp 1

4. RÈN GIỮ VỞ SẠCH - CHỮ ĐẸP

 Một trong những phần quan trọng trong công tác chủ nhiệm là việc rèn cho học sinh giữa vở sạch - chữ đẹp.

4.1. Trước hết để giúp học sinh giữ được vở sạch , viết chữ đẹp thì:

Giáo viên phải làm gương cho học sinh noi theo. Tất cả các SGK và sổ giáo án tôi đều bao bọc, trình bày rõ ràng. Chữ viết hàng ngày ở bảng lớp tôi viết rất cẩn thận, đúng độ cao, khoảng cách đều, nét chữ viết rõ ràng, đặt đúng vị trí, trình bày bài giảng rõ ràng, sạch đẹp. Vì những hình ảnh trình bày trên bảng đều là những cái mẫu có tác dụng mạnh đến học sinh để học sinh làm theo.

Khi viết chữ mẫu vào vở học sinh hằng ngày tôi cũng luôn viết chữ đúng độ cao từng con chữ, khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng đều nhau, đặt dấu thanh đúng quy định. Vì cô có viết rõ ràng, đều nét, trình bày đẹp thì học sinh sẽ viết theo chữ mẫu của cô.

 

doc25 trang | Chia sẻ: dungnc89 | Lượt xem: 1089 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp đối với học sinh lớp 1, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 nắm rõ từng đối tượng học sinh trong lớp để sắp xếp chỗ ngồi cho các em thật hợp lý. Mỗi tổ, mỗi nhóm phải có đủ các đối tượng học sinh: giỏi, khá, trung bình, yếu.
Trong lớp có 3 dãy bàn tương ứng với tổ, mỗi bàn có hai em. Đối với học sinh học còn chậm, yếu thì giáo viên sắp xếp tạo điều kiện về chỗ ngồi thuận lợi nhất là bàn đầu hoặc bàn thứ 2 để tạo điều kiện cho việc quan sát, theo dõi, uốn nắn kịp thời của giáo viên. Mỗi tổ có một bạn tổ trưởng, và một bạn tổ phó để theo dõi lẫn nhau trong mọi hoạt động học tập, như kiểm tra bài lẫn nhau, đổi vở cho nhau để tự chữa bài. Kịp thời thông báo cho giáo viên nắm được tình hình và giúp các em đó học được tốt hơn.
Đội ngũ cán bộ lớp phải đưa ra tiêu chuẩn để các em bình chọn. Những em được giúp bạn là những em có học lực khá trở lên, có bản lĩnh, có năng lực, có hạnh kiểm tốt, xông xáo, hoạt bát, mạnh dạn, nhanh nhẹn trong mọi hoạt động, luôn gương mẫu cho các bạn noi theo. Giáo viên xây dựng tập thể lớp thực sự là một tổ ấm có tinh thần tự học, tự rèn luyện và tự quản cao. Biết yêu thương giúp đỡ bạn cùng tiến bộ.
1.4 Giáo viên và học sinh tham gia mọi hoạt động: 
Ở lứa tuổi này các em rất nhạy bén trong giao tiếp. Vì vậy các em rất hay so bì, dễ tự ái. Để tránh mất lòng tin nên giáo viên phải hết sức nghiêm túc, thực hiện mọi hoạt động cùng học sinh để khen, chê đúng mức, kịp thời. Các nề nếp phải được thực hiện liên tục và đồng bộ, luôn coi trọng ý kiến của học sinh, kiên trì lắng nghe khi học sinh nói, hoặc có ý kiến trong giờ sinh hoạt lớp dù đúng hay chưa thật chính xác. Giáo viên cũng nên khen để các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn mỗi khi có ý kiến phát biểu tính tập thể.
Ngoài giờ học cô, trò thỉnh thoảng trò chuyện dù những việc không liên quan đến việc học. Nhưng từ đó học sinh cũng thấy được sự thân mật, gần gũi, sự quan tâm thương yêu của cô giáo giúp các em ham thích đi học.
Với những yêu cầu trên dựa vào đó mà giáo viên có những chứng cứ cụ thể để đánh giá thành tích cho các em. Một khi cá nhân các em có biểu hiện tốt, giúp giáo viên đánh giá được chính xác và công bằng.
1.5 Giáo viên quan tâm đến sức khỏe và cách ăn mặc của học sinh: 
Giáo viên không những quan tâm về nề nếp, đạo đức và học tập của học sinh, mà còn phải thường xuyên quan tâm đến sức khỏe của các em nữa. Vì các em còn nhỏ chưa tự mình chăm sóc sức khỏe và cách ăn mặc cho phù hợp.
Ví dụ: “ Đơn cử như phần đa m hoàn cảnh gia đình các em gặp nhiều khó khăn nên khi đi học các em ăn mặc phong phanh, vệ sinh cá nhân quần áo chưa sạch sẽ, sách vở, đồ dùng học tập không có”. Khi tìm hiểu mới biết cha mẹ của các em còn phải đi làm ở trên rẫy, hàng tuần, hàng tháng mới về nhà, nhiều em cũng nghỉ học để theo cha mẹ lên rẫy ở dẫn đên tình trạng làm dán đoạn đến việc học tập của các em.
1.6 Giáo viên quan tâm đến việc rèn kĩ năng sống cho học sinh
Hiện nay kĩ năng sống là một trong những vấn đề nổi cộm trong học sinh nhất là các em học sinh mới bước vào lớp một. Các em mới bước chân vào trường Tiểu học, nhiều em rất rụt rè, nhút nhát, gặp người lạ là lập tức co rúm, nấp sau lưng bố, mẹ và òa lên khóc, có em thì hét lên khi cô giáo hỏi han hoặc trả lời trống không, gặp thầy cô giáo mà không dạy mình là không chào...Chính vì vậy vấn đề rèn kĩ năng sống cho các em là rất cần thiết khi các em mới bước vào trường Tiểu học. Như vậy vai trò của giáo viên chủ nhiệm vô cùng quan trọng trong việc rèn kĩ năng sống cho các em. Dạy các em biết cách chào khi đi học và khi đi học về, gặp người lớn, thầy cô thì vòng tay lễ phép chào. Biết nói cảm ơn khi được cho hoặc được giúp đỡ, biết kính trọng, lễ phép với người lớn và nhường nhịn các em nhỏ hơn mình. Đến lớp lắng nghe cô giáo giảng bài, có ý kiến thì giơ tay chứ không nói chen ngang, giáo viên giúp các em tự tin hơn trước đám đông bằng nhiều hình thức như: sinh hoạt đầu giờ, thảo luận nhóm...Đây là những kĩ năng hết sức cơ bản trong cuộc sống mà các em dần hình thành ngay từ lớp 1. 
1.7 Công tác phối kết hợp: 
Mỗi năm học có ít nhất 3 lần họp phụ huynh học sinh do Ban Giám hiệu chỉ đạo. Nhằm để thông báo kết quả học tập của học sinh và cùng với phụ huynh bàn bạc đưa ra kế hoạch cụ thể để giáo dục tốt cho học sinh. Đồng thời báo cáo cụ thể cho phụ huynh nắm về các mặt đạo đức, học tập của từng em. Yêu cầu phụ huynh tạo điều kiện cho con em mình học tập theo yêu cầu của nhà trường. Đề nghị với Chi hội phụ huynh học sinh tạo điều kiện giúp đỡ những em học sinh nghèo. Nhắc nhở phụ huynh kết hợp cùng giáo viên chủ nhiệm để giáo dục đạo đức cho con em mình ở nhà. Đồng thời thỉnh thoảng giáo viên đến nhà thông báo cho cho phụ huynh biết được tình hình học tập cũng như đạo đức khi có sự thay đổi lười biếng học, hay quên đồ dùng học tập, gây gổ với bạn bè. Giáo viên thường xuyên đến thăm hỏi gia đình học sinh để hiểu rõ hơn về hoàn cảnh gia đình và trình bày cụ thể về tình hình học tập, đạo đức của những em đó. Đồng thời nhắc nhở phụ huynh quan tâm hơn đến việc giáo dục con em mình.
Nghiêm túc lĩnh hội ý kiến chỉ đạo của Ban Giám hiệu nhà trường khi có những vấn đề xảy ra nghiêm trọng trong lớp. Phối kết hợp với giáo viên trong tổ khối tìm ra biện pháp hay nhất để giáo dục những em học sinh cá biệt. 
Phối kết hợp với Tổng phụ trách Đội giúp các em tham gia sinh hoạt sao nhi đồng. Tóm lại giáo viên cùng học sinh tham gia mọi hoạt động do nhà trường và các đoàn thể phát động và giúp các em quan hệ tốt với các bạn bè trong trường.
1.7 Giáo viên là tấm gương sáng cho học sinh noi theo: 
Ở lứa tuổi này các em rất hiếu động dễ bắt chước nhưng cũng mau chóng quên. Các em xem cô giáo là thần tượng và nhất là việc gì cũng cho cô là đúng. 
Vì thế giáo viên phải hết sức cẩn thận nghiêm khắc với bản thân từ lời ăn tiếng nói, đến tác phong làm việc, trong giảng dạy phải gương mẫu kiên trì, ân cần công bằng với mọi học sinh không nên cứng nhắc, nghiêm khắc nhưng không để các em sợ, vui nhưng không để học sinh quá trớn. Ngoài giờ học còn thể hiện sự vui tươi hòa nhã, gần gũi trò chuyện với học sinh để không gây ấn tượng sợ 
hãi mà ngược lại các em luôn thấy thoải mái tin tưởng muốn gần gũi bên cô của mình.
Giáo viên phải thể hiện được lòng nhân ái, yêu nghề mến trẻ “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Không quá nóng nảy, quát tháo, vi phạm nhân cách học sinh. Với nhiệm vụ của mình đều có những khó khăn riêng trong công tác chủ nhiệm. Tôi luôn nghĩ ra những kinh nghiệm hay nhất, hướng giải quyết phù hợp để thay đổi ở từng thời điểm và gây được uy tín đối với học sinh và phụ huynh.
2/. RÈN LUYỆN THÓI QUEN
	Đối với học sinh lớp 1 là một sự thay đổi rất lớn. Từ phạm vi mẫu giáo nhỏ bé các em được tiếp xúc với nhà trường phổ thông rộng lớn.
	Các em chưa hình thành được lời nói hay, việc làm tốt là thường bắt chước. Tất cả các em lại ratá hồn nhiên, đôi khi chỉ vì một cái rất nhỏ bé đã giận hờn, không chơi với nhau, làm làm hộ, hoặc giúp nhau nữa....vì lẽ đó trong mọi hoạt động tôi đã hướng dẫn tỉ mỉ, dìu dắt các em từng bước để giúp các em vui bằng cảm tính mà dần dần hình thành một số thói quen.
	2.1/. Ngay từ đầu năm học tôi đã cho học sinh học thuộc 5 điều bác Hồ dạy. Hàng ngày vào đầu giờ tôi cho học sinh đứng nghiêm trang đọc thuộc 5 điều Bác Hồ dạy. Tôi đã giải thích để các em hiểu từng Điều và tự bản thân các em thực hiện đúng theo.
	2.2/. Xây dựng tổ học tập giúp nhau trong học tập như: bạn học giỏi phần toán kèm bạn học yếu môn toán, bạn đọc tốt kèm bạn đọc yếu... Khi bắt đầu tiết học vần các em nộp vở ở nhà lên bàn giáo viên theo tổ.
	2.3/. Hướng dẫn học sinh có ý thức vệ sinh chung, vệ sinh cá nhân như đầu giờ tôi luôn luôn kiểm tra vệ sinh tay, chân, quần áo học sinh. Để một chậu nước, hướng dẫn học sinh rửa tay trước khi vào lớp, kiểm tra tay trước khi cầm bút viết bài.
2.4/. Quy định xếp hàng ra vào lớp theo tổ sao cho nhanh, đẹp, có thi đua giữa tổ với nhau. Yêu cầu các em đi thẳng hàng, không xô đẩy, chen lấn, phải đi nghiêm túc đến ngoài cổng trường mới được phá hàng.
	4/.Tập luyện cho các em những điều sau:
	Không nói tục, chửi thề
	Không xưng hô mày, tao với bạn bè.
	Không xả rác bừa bãi
	Không chọc ghẹo, gây gổ, đánh nhau với bạn...
3/. XÂY DỰNG NỀ NẾP.
Việc xây dựng nề nếp học tập cho các em cũng là một trong những yếu tố quan trọng trong công tác chủ nhiệm lớp. Xác định rõ được điều đó nên tôi đã chú ý đến biện pháp xây dựng tốt nề nếp học tập cho học sinh để làm tiền đề cho việc nâng cao chấp lượng học sinh cho lớp mình.
- Kiện toàn tổ chức lớp.
- Tiến hành bầu lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ phó và phân chia tổ, sắp xếp chỗ ngồi theo vị trí từng tổ các em nhỏ được xếp bàn trên, các em lớn ngồi ở bàn dưới, qui định ranh giới từng chỗ ngồi cho từng em. Xếp em học giỏi kèm em học yếu.
- Chọn đội ngũ cán bộ nhanh nhẹn, hoạt bát, hăng hái với công việc được giao.
- Tập huấn cho đội ngũ cán bộ lớp (từ tổ phó trở lên) sau đó triển khai xuống lớp những qui định của giáo viên của lớp.
+ Quy định về nề nếp sinh hoạt đầu giờ, giữa giờ, tự giác theo sự điều khiển của lớp trưởng hát tập thể 1 bài. Ngồi chăm chú nghe đọc báo, tập trung nghe chuyện, tự giác điều khiển lẫn nhau để giữ trật tự khi vắng mặt giáo viên chủ nhiệm ở những phút đầu giờ.
+ Xây dựng cho các em hệ thống ký hiệu dạy học như:
+ Khoanh tay trên bàn, mắt nhìn lên bảng chú ý nghe cô giáo giảng bài.
“B” Lấy bảng con, phấn, khăn lau bảng để lên bàn.
“S15” Lấy sách trang 15 bài  để lên bàn.
- Khi viết bảng con:
+ Gõ một tiếng đưa bảng con lên ngang tầm mắt (đưa hai tay chống lên bàn).
+ Cô gõ tiếp các em hạ bảng.
+ Cô gõ tiếp các em đọc từ vừa viết.
+ Cô gõ tiếp các em lau bảng.
 - Giáo viên hướng dẫn các em giơ tay phát biểu bằng tay phải đặt lên mu bàn tay trái, tay trái khoanh lên bàn. Tư thế đứng trả lời cô giáo thẳng và cách trả lời lễ phép ngắn gọn.
- Hàng ngày giáo viên tuyên dương khen ngợi kịp thời những cá nhân, những tổ có nhiều cố gắng trong việc giữ gìn tốt nề nếp tốt cho các em khác noi theo và cũng thật là nhẹ nhàng, nhưng nghiêm khắc, phê bình những cá nhân, tổ còn mắc sai phạm làm ảnh hưởng đến nề nếp lớp. 
	- Xây dựng nề nếp mặc đồng phục vào thứ hai, thứ tư, thứ sáu, các bạn nam bỏ áo trong quần, cũng là một số nề nếp qui định cho từng cá nhân học sinh cả nam lẫn nữ tuyệt đối không được sai phạm. Gọi một vài em nam nữ ăn mặc chỉnh tề lên trước lớp để làm gương cho học sinh noi theo.
	- Nề nếp giữ vệ sinh lớp từ đầu giờ đến cuối giờ phải có ý thức giữ sạch lớp mình. Trực nhật của học sinh phải có sự phân công cụ thể từng nhóm, giáo viên luôn kiểm tra ngay từng buổi học, có nhận xét phê bình kịp thời nếu học sinh thiếu ý thức khi đã đến phiên mình trực, bên cạnh đó giáo viên cần có những động viên khen ngợi những em làm tốt trực nhật.
- Tư thế ngồi học trong lớp cũng là một nề nếp của học sinh. Thường học sinh phải ngồi nghiêm chỉnh chú ý bài. Sau mỗi tiết phải có giải lao 5 phút chuyển tiết cho học sinh, giải lao giúp các em thoải mái hơn ở tiết học tiếp theo. Khi giảng bài để học sinh tiếp thu bài tốt giáo viên còn uốn nắn sửa chữa kịp thời giúp học sinh tập trung chú ý vào bài để học tập tốt, ngoài ra còn giải lao 2 à3 phút giữa tiết học.
- Nề nếp đưa tay phát biểu cũng là quan trọng nhiều khi học sinh hiểu bài muốn cô giáo gọi phát biểu học sinh thường đứng dậy “Thưa cô em”, “ em cô, em cô” thật to làm như vậy dẫn đến mất trật tự, thời gian. Chúng ta cần quán triệt và sửa sai cho học sinh. Muốn phát biểu ngồi ngay vị trí của mình đưa tay phải lên và tì gối tay lên bàn học thật nghiêm túc, đến khi có hiệu lệnh của giáo viên mới được phát biểu, tuyệt đối không được nháo nhác, ồn ào làm mất trật tự lớp học.
	- Nề nếp tự kiểm tra chấm chữa bài (bằng bút chì) thông qua lớp trưởng hoặc giáo viên chủ nhiệm.
	- Nề nếp trả lời cũng cần uốn nắn cho học sinh phải trả lời thành câu rõ ràng đúng ngữ pháp.
- Nề nếp ghi bài vào vở cũng được qui định rõ ràng, đối với học sinh lớp 1 các em chưa quen ghi bài vào vở, cách trình bày một bài học. Giáo viên cần uốn nắn dùng bút chì để kẻ dòng sau khi viết xong bài 1 ngày gạch dài từ lề đỏ cách 4 ô, gạch để lại 4 ô, hết tuần gạch liền cả trang giấy vở.
- Nề nếp bao bọc vở ghi cũng cần qui định cho học sinh, chẳng hạn bao:
+ Vở bọc màu vàng hoặc xanh: Vở toán.
+ Vở bọc màu cam: Tập viết ở lớp.
+ Vở màu tím: Vở tập viết ở nhà.
+ Vở màu đỏ: Vở học chung giúp học sinh lấy đúng vở để ghi bài (thường thì học sinh ghi bài lung tung).
- Nề nếp ghi bài học vào vở cũng cần quan tâm chú ý thường xuyên (ở học kì II) tập cho các em ghi ngày tháng. Giáo viên cần nhắc nhở học sinh khi sử dụng vở. Viết xong bài thì phải sử dụng thước kẻ để kẻ hàng (chú ý không được cho học sinh kẻ tay).
- Nề nếp hoạt động nhóm: Hình thành hoạt động nhóm ngay từ đầu năm học. Giáo viên dùng kí hiệu “Nh 2” toàn bộ học sinh hoạt động nhóm: (hai bàn quay mặt đối diện nhau) thảo luận theo yêu cầu của giáo viên. Thảo luận kênh hình, phiếu học tập 
- Nề nếp giảng bài: Cần phát huy tính chủ động trong học tập khi giảng giáo viên cần đào sâu khởi động những kiến thức cơ bản mấu chốt, khuyến khích học sinh tự giác nêu cao vai trò chủ đạo của mình trong học tập. Cần phải uốn nắn kịp thời ngay trên lớp học khi học sinh bị sai phạm. 
- Thu vở học sinh để chấm bài: Tập cho học sinh có thói quen nộp bài theo tổ. Tổ trưởng nộp bài ngay ngắn cho cô giáo. Tránh được tình trạng lộn xộn. 
- Một lớp học có nề nếp là phải trật tự, tự mình sửa sai cho bạn, nhắc nhở bạn. Nếu quá đáng báo cáo cô giáo để có biện pháp giúp cho học sinh im lặng.
- Nề nếp đi học đúng giờ, nghỉ học phải xin phép, cần phải có thói quen về kỉ luật. Nếu học sinh sai phạm phải điều chỉnh ngay, giúp học sinh có ý thức tốt về học tập. 
- Nề nếp làm bài về nhà, giáo viên cũng thường xuyên nhắc nhở, luôn kiểm tra giúp học sinh chú ý nhiều.
* Kết quả : Lớp tôi luôn được liên đội và nhà trường đánh giá cao và luôn được nhận cờ thi đua hàng tuần.
4. RÈN GIỮ VỞ SẠCH - CHỮ ĐẸP
	Một trong những phần quan trọng trong công tác chủ nhiệm là việc rèn cho học sinh giữa vở sạch - chữ đẹp. 
4.1. Trước hết để giúp học sinh giữ được vở sạch , viết chữ đẹp thì: 
Giáo viên phải làm gương cho học sinh noi theo. Tất cả các SGK và sổ giáo án tôi đều bao bọc, trình bày rõ ràng. Chữ viết hàng ngày ở bảng lớp tôi viết rất cẩn thận, đúng độ cao, khoảng cách đều, nét chữ viết rõ ràng, đặt đúng vị trí, trình bày bài giảng rõ ràng, sạch đẹp. Vì những hình ảnh trình bày trên bảng đều là những cái mẫu có tác dụng mạnh đến học sinh để học sinh làm theo.
Khi viết chữ mẫu vào vở học sinh hằng ngày tôi cũng luôn viết chữ đúng độ cao từng con chữ, khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng đều nhau, đặt dấu thanh đúng quy định. Vì cô có viết rõ ràng, đều nét, trình bày đẹp thì học sinh sẽ viết theo chữ mẫu của cô.
4.2. Kết hợp với phụ huynh: 
Ngay lần họp phụ huynh đầu tiên, tôi thông báo với phụ huynh học sinh bộ sách cần cho học sinh lớp 1. Nên yêu cầu cha mẹ cần phải mua đầy đủ các loại sách vở bài tập cho các em, mua bìa bao đúng theo màu quy định của lớp. Cũng trong cuộc họp này tôi nêu rõ việc “Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp” để phụ huynh nắm được, hằng ngày trước khi đi học, cha mẹ nên nhắc nhở các em rửa tay chân sạch sẽ, tránh để các em tay giơ bẩn sờ vào sách vở sạch sẽ làm giây bẩn và đặc biệt là tầm quan trọng của chữ viết, có viết đẹp rõ ràng thì các em mới học tốt các môn khác được, chữ viết cẩu thả người khác không đọc được, về nhà không đọc được, không biết làm bài sẽ dẫn đến học kém. Một số cha mẹ học sinh không biết đọc, biết viết tôi đã mang theo quyển Tiếng Việt và quyển Tập viết đến để hướng dẫn phụ huynh những phần viết mẫu trong sách để phụ huynh về nhắc nhở hướng dẫn các em viết. Muốn cho các em viết chữ rõ ràng, đều đẹp; điều đầu tiên là phải tạo cho con em có đủ bút, vở, phấn, bảng và dụng cụ dùng cho môn học trong ngày. Phụ huynh cần thường xuyên kiểm tra vở viết, nhắc nhở các em viết bài ở nhà, đặc biệt phải rửa tay sạch trước khi viết bài tránh làm bẩn vở.và điều quan trọng là cần bao bọc sách vở cho các em sạch đẹp.
4.3. Hướng dẫn học sinh ở lớp giữ vở sạch: 
- Trong sinh hoạt 15 phút sinh hoạt đầu giờ ôn bài tôi dành 3 - 5 phút kiểm tra vệ sinh tay, nếu em nào tay bẩn yêu cầu các em rửa tay và lau khô tránh làm bẩn vở.
- Đối với những em hay ra mồ hôi tay thì khi viết dùng 1 tờ giấy lót hoặc có khăn sạch để lau, để tránh mồ hôi làm lem nhem mực, bẩn vở.
- Thường xuyên chấm điểm, kiểm tra bài viết của các em ở nhà để kịp thời phát hiện những vở bị xé, tránh việc xé giấy làm xộc xệch sách vở.
Đối với những em viết chưa đẹp giáo viên cần tăng cường khâu động viên như nếu hôm trước viết được 8 điểm, hôm nay viết cũng không đẹp hơn nhưng giáo viên cho 9 điểm trừ và nói rằng em đó đã tiến bộ hơn một tí nếu hôn sau viết được 9 điểm thì khen còn nếu vẫn viết được 9 điểm trừ thì sẽ phạt. Từ đó các em thấy tự tin rằng hôm nay mình cũng đã viết đẹp hơn và cảm thấy tự hào với các bạn và hôm sau sẽ càng cố gắng hơn. Từ đó các em đó sẽ ngày một tiến bộ hơn.
4.4. Rèn viết chữ đẹp: 
Đối với học sinh lớp Một viết chữ đẹp là yêu cầu khó nhưng cần thiết phải thực hiện ngay từ đầu, phải hình thành cho các em ý thức viết đúng mẫu, viết đều nét. Có vậy chữ mới đẹp.
Muốn viết chữ đẹp và đều nét, trước hết phải giúp học sinh nắm vững độ cao của từng chữ cái ghi âm theo đúng quy định .
Ví dụ: a, o, ô, ơ, e, ê, i, u, ư, n, m, v, x, , ... có độ cao một đơn vị.
d, d, p, q có độ cao 2 đơn vị
l, b, h, k, g, y có độ cao 2,5 đơn vị
Riêng t cao hơn một đơn vị nhưng thấp hơn hai đơn vị. Chữ s cao 1,5 đơn vị, chữ r cao hơn 1 đơn vị.
Khi nắm vững độ cao của từng chữ cái ghi âm, các em sẽ viết đẹp và khi cần ghép 2 - 3 chữ cái ghi âm thành chữ ghi tiếng viết liền mạch đúng quy trình chữ càng đẹp hơn.
Ví dụ: đ cao 2 đơn vị , a cao 1 đơn vị, ghép đ với a sẽ có: đa. Chữ cân đối đều và đẹp.
Nếu viết không đúng độ cao quy định đ thấp hơn 2 đơn vị và a cao hơn 1 đơn vị; khi ghép đ với a sẽ có đa (đ = a) chữ không cần đối không đẹp. Do vậy trong chương trình dạy môn Tập viết ở lớp Một có 2 giai đoạn.
4.4.1) Giai đoạn đọc âm viết chữ ghi âm: 
Giai đoạn này các em viết bút chì 10 tuần đầu của chương trình học. Trong mỗi bài học vần đều có 5 - 10 phút dành cho luyện viết âm vừa học giúp học sinh học âm nào viết được âm đó. Cho nên sau khi hướng dẫn học sinh đọc xong phần học âm, tôi hướng dẫn các em viết chữ ghi âm vừa học: 
Trước hết kẻ dòng ở bảng lớp hướng dẫn cho học sinh biết độ cao mỗi dòng kẻ là 1 đơn vị, đặt bút đúng điểm quy định và đưa bút theo quy trình đúng độ cao quy định cho học sinh quan sát, sau đó cho các em viết vào bảng con.
Ở giai đoạn này trong mỗi bài đều hướng dẫn một, hai chữ cái ghi âm cần hướng dẫn rõ ràng, cụ thể từng chữ cái ghi âm để rèn kỹ năng viết đúng độ cao từng chữ quy định; nếu có nhầm lẫn sai sót cần hướng dẫn cụ thể kịp thời sửa chữa.
 Ví dụ: kh phải viết k = h; th thì phải viết t thấp hơn h, không viết t = h.
4.4.2) Giai đoạn học vần và tập đọc: 
Ở giai đoạn này yêu cầu cao hơn, các em học vần, viết vần và tiến đến học tập đọc, viết tập chép, chính tả bằng bút mực. Tuy nhiên các em đã nắm được độ cao của từng chữ cái ghi âm nên khi chép giáo viên cần hướng dẫn kỹ cách viết liền mạch và nhắc nhở về độ cao của mỗi chữ ghi âm, các em sẽ viết đẹp.
Ví dụ: a ghép với m để có am, học sinh nắm được a với m có độ cao bằng nhau, chỉ cần nối liền mạch từ a sang m sẽ có am, tránh nối am.
Ở giai đoạn này tôi chú ý đến khoảng cách giữa vần này với vần kia, làm sao giúp học sinh viết khoảng cách đều, dấu thanh phải viết rõ trên âm. Chính là điều quan trọng, không ấn mạnh ngòi bút làm nét to chữ xấu.
Trong giai đoạn này tôi hướng dẫn các em viết lại các vần tiếng đã học ở bảng con, hướng dẫn tỉ mỉ độ cao, cách nối liền mạch, đưa bút sao cho các con chữ đẹp và sửa sai kỹ để rèn kĩ năng viết đúng. Sau đó hướng dẫn viết vào vở.
4.5. Hướng dẫn viết ở nhà:
Mỗi học sinh đều có một vở trắng để viết ở nhà, sau mỗi bài học âm -vần - tiếng - từ. Tôi đều viết mẫu âm, vần, tiếng, từ đó vào đầu mỗi trang vở; sau đó chấm khoảng cách đều bằng nhau bằng chấm đỏ ( đối với những em viết yếu) để các em rèn luyện chữ viết ở nhà.
Khi các em viết thành thạo, tôi không chấm khoảng cách, chỉ viết mẫu từ có 2 - 3 tiến

File đính kèm:

  • docSKKN_LOP_1_MOT_SO_BIEN_PHAP_LAM_TOT_CONG_TAC_CHU_NHIEM_VOI_HS_LOP_1.doc
Giáo án liên quan