Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 học tốt bài thể dục phát triển chung

BIỆN PHÁP 5. SỬ DỤNG “BĂNG ĐĨA NHẠC CÓ LỜI HÔ” VÀO TRONG TIẾT DẠY.

 Phần bài thể dục phát chung ở lớp 1 gồm có 7 động tác, thế nhưng khi giảng dạy không phải động tác nào cũng có nhịp hô như nhau mà tuỳ thuộc vào từng động tác, có những động tác cần nhịp hô hơi chậm và kéo dài để học sinh tập kịp kết hợp phối hợp các bộ phận của cơ thể như: động tác vươn thở, điều hoà; nhưng cũng có những động tác cần hô hơi nhanh như : Vậy nên khi cho học sinh tập cả lớp giáo viên nên sử dụng băng đĩa nhạc có lời hô để giúp học sinh thực hiện động tác đúng phương hướng, biên độ động tác. Bên cạnh đó giáo viên có thêm thời gian để quan sát và uốn nắn, sửa sai kịp thời cho từng học sinh đối với những động tác mà các em tập chưa đúng. Đồng thời khi sử dụng băng đĩa nhạc có lời hô vào mỗi tiết dạy còn làm cho tiết học thêm phong phú, sinh động, học sinh có hứng thú hơn với tiết học.

 

doc22 trang | Chia sẻ: dungnc89 | Lượt xem: 1173 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 học tốt bài thể dục phát triển chung, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o dục thể chất, tăng cường sức khỏe, góp phần nâng cao sức đề kháng của cơ thể, phòng chống các loại dịch bệnh như"cảm cúm do thời tiết thay đổi và tiêu chảy cấp.. cho học sinh trong trường học.
	+ Phát hiện và tuyển chọn những em có tài năng thể thao, bổ sung cho lực lượng vận động viên năng khiếu tham gia hội khỏe phù đổng do ngành giáo dục và đào tạo tổ chức hàng năm.
III. Đối tượng nghiên cứu. 
 Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 học tốt bài thể dục phát triển chung 
IV. Đối tượng khảo sát.
 81 học sinh khối lớp 1 trường Tiểu học Đç Đéng 
V.Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau : 
Phương pháp nghiên cứu lí luận .
Phương pháp quan sát sư phạm .
Phương pháp điều tra.
Phương pháp đàm thoại – trao đổi.
Phương pháp trực quan.
Phương pháp trò chơi .
Phương pháp thi đấu .
Phương pháp ổn đỉnh .
Phương pháp thống kê.
VI. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu.
 1.Phạm vi nghiên cứu.
Một số biện pháp giúp học sinh lớp một trường Tiểu học Đç Động học tốt bài thể dục phát triển chung.
 2. Kế hoạch nghiên cứu.
	* Để thực hiện hoàn thành tốt sáng kiến kinh nghiệm tôi xin trình bày kế hoạch thực hiện đề tài như sau:
	- Đầu tháng 08 năm 2014 nghiên cứu và đăng ký tên đề tài.
	- Vào tháng 09 năm 2014, tìm tài liệu nghiên cứu, tham khảo và liên hệ thực tế ở điểm trường cũng như ở địa phương nơi công tác giảng dạy. 
	- Vào tháng 10 năm 2014 đến tháng 12 năm 2014 lập thành đề cương nghiên cứu.
	- Cuối tháng 4 năm 2015, soạn hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm gửi về trường.
B.NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
I. Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài
1. Đặc điểm tình hình
a. Giáo viên:
Phân môn thể dục là một môn học được thay đổi nhiều về nội dung chương trình và cấu trúc sách giáo khoa vì nó được xây dựng theo hướng tích cực, tránh sự trùng lặp, giảm thời gian học tập nhằm tăng tính tích cực hoá hoạt động cho học sinh.
	Giáo viên được tập huấn thay sách, được hướng dẫn cách xây dựng và thiết kế bài học theo hướng phân chia hoạt động cụ thể, rõ ràng, có chỉ dẫn phương pháp giảng dạy từng chủ đề, động tác.
	Được sự đồng tình và giúp đỡ, động viên của đồng nghiệp, của Ban giám hiệu nhà trường.
	Giáo viên nhiệt tình trong công tác giảng dạy, luôn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu cũng như học hỏi qua các tiết dạy của đồng nghiệp để tìm ra biện pháp giáo dục tốt nhất nhằm đem lại hiệu quả cho tiết dạy.
b. Học sinh:
 - Học sinh đựơc học trong nhà đa năng mới được đầu tư và xây dựng khá khang trang.
 - Một bộ phận học sinh còn xem nhẹ môn học vì tính chất là môn phụ.
Học sinh chưa hiểu rõ vị trí, tầm quan trong của việc tập luyện bài thể dục.
 - Mất tập trung trong giờ học dẫn tới việc tập chưa đúng ở một số động tác.
 - Sự phối hợp chưa nhịp nhàng giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh.
 - Một số học sinh do tập thể dục không thường xuyên hoặc tập chưa đúng động tác nên gây ra sự mệt mỏi ở các cơ bắp từ đó không còn hứng thú với bài thể dục.
 - Thiếu sự quan tâm, chỉ bảo của phụ huynh học sinh, từ đó học sinh chưa hình thành được thói quen tập thể dục hàng ngày.
2. Số liệu trước khi nghiên cứu:
Năm học
Số phần trăm học sinh học tốt bài thể dục phát triển chung
2013-2014
 70%
II. Những biện pháp thực hiện chính:
Đổi mới phương pháp dạy học là xu thế phát triển và đáp ứng nhu cầu thực tiễn của giáo dục hiện nay. Để đổi mới phương pháp dạy học và tìm ra được những biện pháp dạy học tốt nhất thì đòi hỏi người giáo viên phải có sự nghiên cứu, tìm tòi, chuẩn bị bài cũng như các thiết bị, đồ dùng dạy học chu đáo, sân bãi tập luyện phù hợp trước khi lên lớp. Đối với phần bài thể dục phát triển chung, trước mỗi tiết dạy giáo viên phải tập sao cho thuần thục các động tác, mỗi giờ học giáo viên cần chủ động áp dụng các hình thức tích cực hoá học sinh bằng nhiều phương pháp và hình thức dạy học.
	Qua một số năm giảng dạy phân môn thể dục ở trường tiểu học , để giúp học sinh tập tốt bài thể dục phát triển chung góp phần hoàn thành mục đích, nhiêm vụ của phân môn thể dục bản thân tôi đã áp dụng các biện pháp sau:
BIỆN PHÁP 1: GIÚP HỌC SINH HIỂU RÕ VỊ TRÍ, TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC TẬP LUYỆN BÀI THỂ DỤC PHÁT TRIỂN CHUNG LỚP 1.
	Trong chương trình thể dục lớp 1 gồm 70 bài dạy trong 35 tuần. Nội dung gồm 2 phần chính.
	Phần quy định gốm có: Đội hình đội ngũ, bài thể dục phát triển chung, bài tập rèn luyện tư thế và kỷ năng vận động cơ bản, trò chơi vận động.
	Bên cạnh đó, nếu tập thể dục thường xuyên sẽ là cho tim khoẻ lên, sự vận chuyển máu của hệ mạch dễ dàng hơn, cung cấp nhiều chất dinh dưỡng và thải cặn bã kịp thời hơn, cơ thể trở nên khoẻ cường tráng, ăn ngủ, học tập và lao động tốt hơn. Cũng nhờ tập luyện thể dục thường xuyên mà cơ xương tiếp thu được máu đầy đủ, các tế bào xương phát triển nhanh, xương dày lên, cứng và dáng đi khoẻ mạnh.
	Ví dụ : Giáo viên giải thích rõ cho học sinh khi tập động tác " vươn thở" thì sẽ tác động đến các cơ, phổi và lồng ngực nở ra, tăng độ đàn hồi, tăng lượng khí trao đổi trong nhịp thở. Từ đó hệ hô hấp hoạt động nhịp nhàng và khoẻ mạnh hơn.
BIỆN PHÁP 2. LỰA CHỊN PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC DẠY HỌC HỢP LÝ:
	 Mỗi bài học người giáo viên không chỉ sử dụng một phương pháp và hình thức dạy học mà phải kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy. Do đó tuỳ theo từng bài dạy cụ thể mà người giáo viên lựa chọn ra những phương pháp và hình thức dạy học tối ưu nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất cho tiết dạy. Đối với phân môn Thể dục cũng vậy, để giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức, nắm bắt nhanh kỹ thuật động tác thì ở từng bài dạy, từng động tác đòi hỏi người giáo viên phải tìm ra những phương pháp và hình thức dạy học tối ưu, đúng đặc trưng của môn học nhằm gây được hứng thú tập luyện của học sinh, làm cho tiết học trở nên nhẹ nhàng, sinh động, học sinh nắm vững được kiến thức của bài dạy.
	Chẳng hạn: khi dạy động tác " Tay " tôi sử dụng các phương pháp như: giải thích, trực quan, làm mẫu, thực hành.
	Hình thức: tập đồng loạt, tập lần lượt, tập theo nhóm.
	Còn khi dạy động tác "Thăng bằng" tôi sử dụng các phương pháp như: giải thích, trực quan, làm mẫu, thực hành, thi đua.
	Hình thức: tập đồng loạt, cá nhân, nhóm và tổ.
BIỆN PHÁP 3. GIẢI THÍCH RÕ KỸ THUẬT ĐỘNG TÁC.	Đối với phân môn thể dục cấp Tiểu học nói chung và bài thể dục phát triển chung lớp 4 nói riêng thì khi giảng dạy là không thể thiếu giải thích kỹ thuật động tác. Đây là phương pháp giúp học sinh có mục đích, hiểu và nắm được kỹ thuật từng nhịp cũng như toàn bộ động tác. Là cơ sở tạo điều kiện cho học sinh tiếp nhận bài tập một cách chính xác, nhanh nhất về mặt kỹ thuật, đồng thời giúp học sinh nhớ và khắc sâu để từ đó hình thành biểu tượng chung của động tác. Song song với việc giải thích kỹ thuật thì giáo viên cũng nên kết hợp với làm mẫu để giúp học sinh tiếp thu một cách nhanh và hiệu quả nhất.
	Ví dụ: Dạy động tác "Tay"
 	Trước hết giáo viên nêu tên động tác, sau đó giải thích cặn kẽ từng nhịp nhưng không quá dài dòng như:
	Nhịp 1: Khuỵu gối, lưng thẳng, đồng thời hai tay đưa sang ngang rồi gập khuỷu tay, các ngón tay đặt lên hõm vai. Giáo viên vừa nói vừa làm mẫu. Các nhịp còn lại cũng vừa giải thích kỹ thuật động tác vừa làm mẫu.
	Khi giải thích kỹ thuật động tác, giáo viên cần nói ngắn gọn, chính xác nhưng dễ hiểu, tránh giải thích dài dòng gây nên sự nhàm chán ở học sinh cũng như mất thời gian để học sinh thực hành luyện tập. Việc giải thích cần chú ý giúp học sinh nắm vững nét cơ bản kỹ thuật và nhấn mạnh yếu lĩnh của động tác đã học. Qua đó củng cố được kỷ thuật luyện tập, đánh giá được ý thức thực hiện bài tập của học sinh. Trong khi giải thích kỹ thuật động tác giáo viên phải chọn vị trí đứng sao cho hợp lí để lời nói của mình vừa được tất cả học sinh trong lớp nghe, giáo viên vừa quan sát được tất cả các em trong lớp. Tránh đứng quá gần hoặc quá xa, đứng lệch sang một bên.
	Chẳng hạn: khi đứng giải thích kỹ thuật động tác vị trí đứng của giáo viên như sau:
BIỆN PHÁP 4.THỰC HIỆN “LÀM MẪU” CHÍNH XÁC.
	Khi dạy động tác mới thì việc làm mẫu là một trong những biện pháp rất cần thiết. Trước hết giáo viên nêu tên động tác ( giới thiệu nhanh động tác đó qua tranh ảnh ), giáo viên làm mẫu hoàn chỉnh động tác sau đó vừa làm mẫu, vừa phân tích động tác rồi cho học sinh tập. Khi làm mẫu, giáo viên phải thể hiện đúng yếu lĩnh của động tác và làm mẫu hoàn chỉnh động tác.
	Đối với những động tác khó, phức tạp, có sự phối hợp của nhiều bộ phận, giáo viên nên làm mẫu chậm từng nhịp hoặc có thể dừng lại ở những cử động khó để học sinh làm theo và giáo viên giám sát xem học sinh tập có đúng hay không.
Giáo viên tổ chức làm mẫu từng nhịp của động tác ®iÒu hßa và cho học sinh cùng làm.
	Sau lần làm mẫu đầu giáo viên kết hợp cho học sinh xem tranh minh hoạ. Khi xem tranh giáo viên chỉ cần nhấn mạnh những điểm cơ bản của động tác, giúp học sinh nắm chắc các cử động kỹ thuật.
	Tiếp đó giáo viên có thể làm mẫu một lần nữa nếu như thấy vẫn còn một số học sinh chưa thực sự nắm chắc kỹ thuật động tác. Đối với lần làm mẫu này giáo viên cũng thực hiện với một mức độ bình thường, đối với những cử động khó giáo viên có thể vừa làm vừa nhắc nhở sự chú ý tập trung của học sinh.
	Như tôi đã nêu ở trên, làm mẫu củng phải kết hợp với giải thích kỷ thuật động tác, đồng thời nhắc nhở học sinh quan sát những khâu chủ yếu. Khi giảng dạy phải trình bày một cách rõ ràng, nhấn mạnh những điểm then chốt của động tác để kích thích sự hứng thú của học sinh thực hiện bài tập.
	Khi giáo viên làm mẫu phải cho học sinh đứng xen kẻ nhau để sao cho tất cả các em đều quan sát được giáo viên làm mẫu động tác. Bên cạnh đó giáo viên cần sử dụng hình thức làm mẫu theo kiểu "soi gương" để vừa thực hiện vừa quan sát được sự tập trung của học sinh.
	Ví dụ : Hướng dẫn học sinh học "động tác điều hoà" 
 	Giáo viên khi dạy học sinh thực hiện nhịp 1 của động tác " Điều hoà": " Đưa chân trái sang bên ( thả lỏng chân và bàn chân không chạm đất ), đồng thời hai tay dang ngang, bàn tay sấp ( thả lỏng côt tay )" thì giáo viên làm ngược lại "Đưa chân phải sang bên ( thả lỏng chân và bàn chân không chạm đất ), đồng thời hai tay dang ngang, bàn tay sấp ( thả lỏng côt tay " .	
- Giáo viên cho học sinh tập thử hai em, nêu rõ tác dụng động tác, biến độ động tác và giáo viên cùng lớp nhận xét tuyên dương.
- Học sinh tiến hành tập chính thức, giáo viên đi quan sát giúp đỡ sửa sai.
Trong quá trình tổ chức cho học sinh tập luyện động tác giáo viên phải hết sức chú ý về sân bãi, dụng cụ tập luyện, biến độ động tác cũng như phương pháp tổ chức. Nếu giáo viên không làm tốt vấn đề này thì khi tập luyện các em dễ bị chấn thương gây tâm lý không an tâm cho học sinh trong lúc tập luyện thì hiệu quả của động tác không cao cả về mặt thể lực cũng như sự phát triển về trí thức của các em.
BIỆN PHÁP 5. SỬ DỤNG “BĂNG ĐĨA NHẠC CÓ LỜI HÔ” VÀO TRONG TIẾT DẠY.
	Phần bài thể dục phát chung ở lớp 1 gồm có 7 động tác, thế nhưng khi giảng dạy không phải động tác nào cũng có nhịp hô như nhau mà tuỳ thuộc vào từng động tác, có những động tác cần nhịp hô hơi chậm và kéo dài để học sinh tập kịp kết hợp phối hợp các bộ phận của cơ thể như: động tác vươn thở, điều hoà; nhưng cũng có những động tác cần hô hơi nhanh như : Vậy nên khi cho học sinh tập cả lớp giáo viên nên sử dụng băng đĩa nhạc có lời hô để giúp học sinh thực hiện động tác đúng phương hướng, biên độ động tác. Bên cạnh đó giáo viên có thêm thời gian để quan sát và uốn nắn, sửa sai kịp thời cho từng học sinh đối với những động tác mà các em tập chưa đúng. Đồng thời khi sử dụng băng đĩa nhạc có lời hô vào mỗi tiết dạy còn làm cho tiết học thêm phong phú, sinh động, học sinh có hứng thú hơn với tiết học.
BIỆN PHÁP 6. TỔ CHỨC LUYỆN TẬP THEO “NHÓM ĐÔI”. 	Cũng giống như một số môn học khác, sử dụng học tập theo nhóm đôi nhằm giúp cho học sinh có điều kiện phát huy tính mạnh dạn, tự tin và có điều kiện cùng giúp nhau tiến bộ trong học tập. Đối với phân môn thể dục cũng thế, sau khi giáo viên đã hướng dẫn xong kỹ thuật động tác và tổ chức cho học sinh luyện tập theo lớp một số lần kết hợp với quan sát, uốn nắn, sửa sai tại chỗ. Nhưng cứ tập theo đội hình cả lớp như vậy thì sẽ gây nên sự nhàm chán, đơn điệu, mỗi lần giáo viên dừng lại sửa sai cho một em nào đó thì cả lớp cũng phải ngưng tập gây lãng phí thời gian của tiết học. Vậy nên sau một vài lần tập theo đội hình cả lớp thì giáo viên sẽ chia lớp thành các nhóm đôi, phân công vị trí cũng như giao nhiệm vụ cho các nhóm tập luyện. Lợi thế của hình thức tập luyện này là học sinh có điều kiện hỗ trợ lẫn nhau, chỉ bảo cho nhau những kiến thức mà mình đã lĩnh hội được, từ đó giúp các em khắc sâu thêm kiến thức, khơi dậy cho các em tinh thần đoàn kết . Hơn thế nữa, khi tập các động tác khó cần có sự phối hợp của nhiều bộ phận trên cơ thể thì tập theo nhóm đôi sẽ giúp học sinh tự sửa sai cho nhau, cùng giúp dỡ nhau thực hiện đúng động tác, đồng thời khi dạy theo hình thức này thì giáo viên có nhiều thời gian để quan sát và sửa sai cho học sinh mà không gây ảnh hưởng tới các học sinh khác.
BIỆN PHÁP 7. DÙNG PHƯƠNG PHÁP “THI ĐUA’ VAO FTIẾT DẠY MỘT CÁCH HỢP LÝ.
	Đối với phân môn thể dục nói chung và bài thể dục phát triển chung nói riêng thì khối lượng vận động của mỗi tiết học không nhiều, những bài tập thường đơn điệu, các động tác lặp lại nhiều lần nên dễ gây cảm giác nhàm chán trong học sinh. Vậy nên phương pháp học tập này đóng vai trò khá quan trọng trong việc đem lại hiệu quả cho một tiết học. Cụ thể, thông qua hình thức học tập này học sinh sẽ phát huy hết khả năng của mình, từ đó kích thích những học sinh khác có tinh thần tự giác tập luyện, sự hưng phấn trong học tập được nhân lên nhiều lần, giảm bớt được sự uể oải, thiếu tập trung ở một số bộ phận học sinh.
	Ví dụ: Những tiết ôn tập, học sinh khá, giỏi dễ bị nhàm chán do kiến thức, thực hành lặp lại nhiều lần. Vậy để đảm bảo cho các đối tượng học sinh hưng phấn tập luyện, tiếp thu tốt kiến thức thì giáo viên tổ chức cho học sinh thi đua tập luyện theo nhóm nhỏ, sau đó tuyên dương động viên những em tập tốt.
BIỆN PHÁP 8. PHỐI KẾT HỢP VỚI GIÁO VIÊN CHÚ NHIỆM, PHỤ HUYNH HỌC SINH ĐỂ GIÚP CÁC EM CÓ Ý THỨC TỰ TẬP LUYỆN TỐT BÀI THỂ DỤC.
	Đối với giáo viên bộ môn ở cấp tiểu học thường không làm công tác chủ nhiệm một lớp nào, vậy nên trong quá trình giảng dạy cần có sự phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp nhằm giúp cho quá trình giảng dạy thu được hiệu quả cao. Thông qua sự phối hợp này, giáo viên bộ môn sẽ nắm được cá tính , tâm lí, sở thích cũng như trạng thái sức khoẻ của từng học học sinh để từ đó đề ra được các biện pháp giáo dục cho các đối tượng học sinh một cách hợp lí. Đối với học sinh cấp tiểu học, giáo viên chủ nhiệm được xem như người cha, người mẹ ở trường nên học sinh rất vâng lời giáo viên, hay biểu lộ cảm xúc vui, buồn, thích hay không thích cho thầy, cô chủ nhiệm của lớp nên khi xảy ra trường hợp học sinh của lớp nào có biểu hiện chây lười trong việc tập luyện thể dục, ít vâng lời giáo viên bộ môn thì lúc này công tác phối hợp cùng giáo viên chủ nhiệm lớp đó trong việc giáo dục những học sinh trên là điều hết sức cần thiết. Bên cạnh phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp thì vai trò của phụ huynh học sinh cũng có vai trò không nhỏ trong việc giảng dạy của giáo viên thể dục. Bởi vì thực tế học sinh chỉ tham gia vào quá trình học tập ở trường với lượng thời gian khá ít, còn lại là tự học tập ở nhà, thế nên để tất cả học sinh đều có ý thức tự tập luyện, hình thành thói quen tập thể dục hàng ngày đều phải cần đến sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ các em, cũng nhờ sự phối hợp này giáo viên thể dục còn nắm rõ hơn về tình trạng sức khoẻ, tâm sinh lí của từng em để từ đó đưa ra các biện pháp và phân bố thời gian dạy học được hợp lý.
	* Tóm lại: Để các em học tốt bài thể dục phát triển chung giáo viên cần:
Chuẩn bị sân bãi trước khi lên lớp : Sân bãi phải sạch và không có chướng vật.
Dụng cụ tập luyện đầy đủ (như tranh, động tác mẫu ....)
Giáo viên nêu tác dụng động tác (giáo dục học sinh).
Hướng dẫn động tác rõ ràng chính xác.
Giáo viên làm mẫu, phân tích kỹ thuật động tác .
Học sinh lên tập thử , lớp quan sát nhận xét tuyên dương.
Giáo viên điều khiển lớp tập, quan sát giúp đỡ học sinh sửa sai.
Chia nhóm tập theo từng khu vực, giáo viên cần qui định thời gian cụ thể.
Tổ chức thi đua tổ ( nhóm) với nhau lớp nhận xét tuyên dương .
Đại diện tổ ( nhóm ) thi đua với nhau giáo viên cùng HS nhận xét tuyên dương .
III. Kết quả ứng dụng và triển khai.
1. Kết quả thực hiện
- Trong thời gian áp dụng những giải pháp tổ chức luyện tập động tác thể dục, cũng như chuẩn bị tốt về sân bãi, dụng cụ để tập luyện. Tôi thấy rằng học sinh luôn luôn yêu thích, ham học môn thể dục hơn, tham gia luyện tập một cách tự giác và tích cực. Các em luôn siêng năng và thường xuyên luyện tập, rèn luyện thân thể, rèn luyện sức khoẻ, rèn luyện tố chất thể lực để phát triển tốt thể chất của các em học sinh ngày càng được nâng lên. Giáo viên cảm thấy tự tin và chủ động hơn, tiết dạy trở nên sôi nổi, học sinh tích cực học tập và nhiệt tình vào các hoạt động tập luyện, tinh thần giúp đỡ nhau trong học tập ngày càng cao.
Chất lượng chung của học sinh lớp 1 có sự chuyển biến rõ rệt về mặt ý thức cũng như luyện tập thực hành.
	Học sinh nắm được tầm quan trọng, cũng như ý nghĩa của việc tập luyện thể dục. Từ đó các em có thói quen tập thể dục buổi sáng, tự giác rèn luyện nhằm nâng cao sức khoẻ thông việc học tập ở lớp.
2. Bài học kinh nghiệm.
	Để đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động học tập theo hướng tích cực hoá, cũng như để đáp ứng các yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học thể dục ở trường Tiểu học trong giai đoạn hiện nay, tạo ra môi trường cung cấp cho xã hội những con người có sức khoẻ tốt, thể lực cường tráng, dẻo dai. Bản thân tôi rút ra một số bài học sau :
Cần sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, chú ý tập trung vào việc phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh. Thường xuyên sử dụng các phương pháp dạy học đặc trưng của môn học để giúp học sinh nhanh chóng lĩnh hội được kiến thức cơ bản.
	Đối với những động tác khó, giáo viên phải hướng dẫn và làm mẫu từng động cử động trước sau đó mới tiến hành hướng dẫn và làm mẫu toàn bộ động tác.
	Phân bố thời gian tiết học hợp lý sao cho học sinh được thực hành tập luyện nhiều, chú ý đặc điểm cá biệt của học sinh, ưu tiên sử dụng chia tổ, nhóm nhỏ để tập luyện.
	Kết hợp với nội dung học tập với trò chơi ở mức hợp lý, thường xuyên áp dụng phương pháp trò chơi, thi đua, để kích thích sự hưng phấn tập luyện ở học sinh, góp phần giảm sự nhàm chán ở một số học sinh.
	Khi hướng dẫn kỹ thuật động tác cần giải thích ngắn gọn, dễ hiểu, giáo viên làm mẫu phải chuẩn xác và chọn vị trí đứng làm mẫu thích hợp.
	Cần khuyến khích sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các em, giờ học nên diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng.
	Thực hiện tốt việc chuẩn bị bài dạy, phương tiện, đồ dùng dạy học một cách hợp lí.
	Cần sử dụng băng đĩa nhạc có lời hô vào việc dạy học nhằm làm cho lớp học sinh động, giảm thời gian làm việc cho giáo viên, từ đó có điều kiện uốn nắn, sửa sai kịp thời.
 C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. Kết luận
Sau khi áp dụng các biện pháp trên tôi cảm thấy tự tin và chủ động hơn khi giảng dạy bài thể dục phát triển chung, tiết dạy trở nên nhẹ nhàng, sôi nổi, học sinh tích cực học tập và tham gia nhiệt tình vào các hoạt động tập luyện.
	Đối với học sinh khá, giỏi tinh thần tập luyện cao hơn, chuẩn xác hơn. Với những học sinh yếu, mất tập trung trong giờ học đều hưng phấn tham gia vào tập luyện và có sự tiến bộ rõ rệt, ý thức tự giác ngày càng cao.
	Luôn luôn tuyên dương kịp thời những cái đúng, cái hay, cái đẹp của học sinh.
- Hướng dẫn các em tập ở nhà dần dần hình thành thói quen luyện tập để bảo vệ và nâng cao sức khoẻ, phát triển thể lực, phẩm chất đạo đức cho các em, để đất nước ta có một thế hệ trẻ mạnh về thể chất nhưng trong sáng về tâm hồn có đủ sức khoẻ để tham gia lao động sáng tạo trong các hoạt động khác.
Đa số học sinh tập đúng bài thể dục từ đó kích thích được tính sáng tạo và hăng say tập luyện thể dục.
	Vận dụng được kiến thức học ở trong nhà trường vào cuộc sống hằng ngày, tron

File đính kèm:

  • docsang_kien_the_duc_1.doc