Sáng kiến kinh nghiệm Lồng ghép tư tưởng Hồ Chí Minh trong dạy học Giáo dục công dân 9
Khi dạy bài 10, lớp 9: Lý tưởng sống của thanh niên , để giáo dục tư tưởng tinh thần đoàn kết quốc tế, “Bốn phương vô sản đều là anh em” của Bác. Sau khi sang Pháp Người nhận xét: “Người Pháp ở Pháp tốt hơn người Pháp ở Đông Dương”, ở đâu cũng có hai loại người người bóc lột và người bị bóc lột, để thấy được chúng ta chống bọn thực dân Pháp kẻ đã gây bao đau thương, tang tóc cho các dân tộc thuộc địa chứ người Pháp tiến bộ là bạn chúng ta. Phải tranh thủ sự giúp đỡ của họ. Sau khi dùng lược đồ giới thiệu hành trình cứu nước của Bác. Từ đó giúp học sinh hiểu được quyết tâm, hoài bão của Bác ra đi tìm con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam.
của nhân dân ta trong trường kỳ lịch sử (đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh xã hội); đạo đức Hồ Chí Minh là sự kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống và được nâng lên một tầm cao mới, phù hợp với thời đại, đồng thời là sự kết hợp của tinh hoa nhân loại, gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều này đã được lịch sử dân tộc chứng minh. Khái quát lịch sử Việt Nam cho thấy người dân ta từ đời này sang đời khác, đều hướng vào mấy nhiệm vụ to lớn, bao trùm: Làm người, dựng làng, giữ nước. Truyền thống đạo đức Việt Nam là truyền thống giáo dục con người phải tu dưỡng trọn đời để nên người, dựng làng và giữ nước. Chính từ truyền thống đạo đức này mà có lòng yêu nước, lòng nhân ái và những đức tính cần cù giản dịNhững đức tính như yêu nước, cần cù, thương ngườithì trên thế giới nhiều dân tộc có. Cái riêng của dân tộc Việt Nam là ở lý tưởng: dạy cho con nên người, là sống ở làng, sang ở nước, là nhiễu điều phủ lấy giá gương, là sự lo lắng nước mất nhà tanlịch sử ta, hoàn cảnh ta quy định nên bối cảnh truyền thống đạo đức ấy. Chính từ bối cảnh này, mà Hồ Chí Minh mới luôn luôn có sự kêu gọi “học để làm người”, mới có câu nói bất hủ “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chính trên bối cảnh đạo đức truyền thống của dân tộc, mà Hồ Chí Minh xuất hiện. Tư tưởng và đạo đức của Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hoá của nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta; là tấm gương sáng để mọi người Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ Việt Nam đang trong các nhà trường THCS nói riêng học tập và noi theo. Lúc sinh thời, Bác luôn dành muôn vàn tình thương yêu, chăm sóc, giáo dục thanh thiếu niên, nhi đồng. Những lời dạy ân cần và tấm gương đạo đức trong sáng của Người là nguồn cổ vũ to lớn, cuốn hút và thôi thúc lớp trẻ vươn lên, cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước lúc ra đi , Bác còn căn dặn toàn Đảng, toàn dân phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo thanh niên thành “những người thừa kế , xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng, vừa chuyên” và chỉ rõ “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Thấm nhuần tư tưởng và lời dạy đó của Người, ngày nay, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế với thời cơ và vận hội lớn, đan xen với những thách thức không nhỏ, chúng ta càng phải quan tâm bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con người, nhất là thế hệ trẻ - một nhân tố cực kỳ quan trọng, đảm bảo đất nước ta phát triển nhanh và bền vững. Nghị quyết Đại hội lần X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng hoàn thiện giá trị, nhân cách của con người Việt Nam bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, năng lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá của con người Việt Nam” Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã được triển khai trong các nhà trường nhằm mục đích tạo ra sự chuyển biến về mặt nhận thức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, học sinh và quan trọng là phải làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm đẩy lùi suy thoái về đạo đức, tư tưởng, lối sống và tệ nạn xã hội. Nội dung cuộc vận động gồm: Tổ chức nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng đạo đức trong các tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, “Di chúc” và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tập trung vào các phẩm chất "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí đồng thời lồng ghép triển khai Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với triển khai cuộc vận động “Hai không”, cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” và phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”Cuộc vận động đã đáp ứng được nhu cầu của đông đảo giáo viên, cán bộ, công chức, học sinh trong nhà trường, đã bước đầu tạo ra sự chuyển biến nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và những giá trị to lớn của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đặc biệt là về tư tưởng, đạo đức, lối sống của Bác với đội ngũ các thầy cô giáo nhưng chưa được sâu rộng và sâu sắc đối với học sinh bậc Trung học phổ thông. 2.3. Chủ đề tích hợp giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giảng dạy giáo dục công dân lớp 9: Giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh trong dạy học Giáo dục công dân nói chung và môn Giáo dục công dân 9 nói riêng cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau: 1.Nền đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun đắp là sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với tinh thần quốc tế vô sản chân chính và trong sáng. 2. Tấm gương kiên trì, rèn luyện tự hoàn thiện bản thân, kiên trì phấn đấu để đạt được mục đích ích quốc, lợi dân. 3. Tấm gương về một con người yêu quê hương, đất nước, thiết tha cống hiến trọn đời mình vì đất nước. 4. Tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. 5. Tấm gương của một con người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực vì con người. 6. Tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư , đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. 7. Tấm gương tôn trọng kỉ luật và pháp luật, không dành cho mình bất cứ đặc quyền, đặc lợi nào. Tùy theo lứa tuổi học sinh, chất lượng học tập ở các khối lớp, điều kiện của giáo viên (phương tiện, đồ dùng dạy học, khả năng giáo viên) mà các nội dung này được cung cấp cho học sinh ở các mức độ khác nhau. 3. Các bước tiến hành: 3.1. Chuẩn bị và sắp xếp, lưu trữ tư liệu: Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả giờ dạy. Kinh nghiệm của bản thân cho thấy nếu nguồn tài liệu không phong phú và tin cậy thì sức thuyết phục không cao. Tư liệu có nhiều loại khác nhau có thể bằng văn bản, bằng hình ảnh, phim tư liệu, bài viết khác và bằng nhận thức thực tiễn của giáo viên. Có nhiều cách sưu tầm tài liệu nhưng với tôi thì thường dùng một số cách cơ bản đó là : Bản thân tự tạo ra tư liệu(tự làm), sưu tầm ở cá nhân, tổ chức có liên quan và một nguồn rất phong phú đó là thông qua mạng internet. Việc sưu tầm tư liệu trên mạng internet đã rất quen thuộc đối với giáo viên trong thời đại bùng nổ thông tin và việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy học. Tài liệu trên mạng phong phú và đa dạng nên đòi hỏi chúng ta phải biết chọn lọc và tìm những tư liệu ở những nguồn đáng tin cậy và phù hợp với mục đích của mình. Để phục vụ cho việc giảng dạy những bài học có nội dung cần tích hợp tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, bản thân tôi đã dày công nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, hình ảnh, bài viết hay, những câu chuyện về Bác qua báo viết, Internet, qua các cuộc thi kể chuyện Bác Hồ, đến nay trong bộ sưu tập của mình tôi đã có hàng trăm tấm ảnh tư liệu về Bác, hơn 100 câu chuyện, hàng chục đoạn phim tư liệu kể về Bác Hồ và rất nhiều tư liệu khác sẵn sàng phục vụ cho việc lồng ghép, minh họa một cách có hiệu quả nhất. Khi đã có được nguồn tư liệu phong phú thì việc sắp xếp và lưu trữ sẽ tạo thuận lợi cho việc sử dụng trong quá trình dạy học sau này. Đa số tư liệu hiện nay tôi có được đều có thể lưu trữ vào máy tính cá nhân và được sắp xếp phân loại cẩn thận theo từng loại, mục khác nhau nên khi cần thì tìm kiếm dễ dàng. Để lưu giữ những tài liệu có được và tránh hư hỏng, mất mát khi có sự cố máy tính tôi đã lưu tất cả các loại tư liệu trên hộp thư điện tử (và trên blog cá nhân), vì vậy bất cứ ở đâu có mạng Internet và khi nào cần cũng có thể lấy được tư liệu. 3.2. Xác định mục tiêu trong bài dạy có tích hợp: Đối với những bài dạy có nội dung lồng ghép, giáo viên cần xác định đầy đủ, đúng mục tiêu cần đạt là gì? (kiến thức, kĩ năng, thái độ) có như vậy thì trong suốt quá trình từ thiết kế bài dạy đến khi thực hành trên lớp mới đảm bảo yêu cầu nội dung đề ra, bài dạy sẽ đi đúng hướng, chất lượng tiết dạy sẽ được nâng cao. 3.3. Xác định mức độ tích hợp Tùy theo nội dung, đặc điểm và khả năng thực hiện việc tích hợp giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của từng đơn vị bài học để lựa chọn mức độ tích hợp thích hợp. - Liên hệ ( mức độ thấp nhất): chỉ khai thác nội dung bài học và liên hệ với kiến thức về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. - Tích hợp bộ phận ( mức độ trung bình): chỉ một phần của bài học lồng ghép hoạt động thực hiện nội dung giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. - Tích hợp toàn phần ( mức độ cao nhất): cả một bài có nội dung trùng khớp với nội dung giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. 3.4. Soạn giáo án: Trên cơ sở mục tiêu cần đạt, những tài liệu tham khảo liên quan được chuẩn bị, giáo viên thiết kế giáo án trong đó phải thể hiện được các hoạt động dạy, hoạt động học cụ thể, hệ thống câu hỏi phù hợp (câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề, phân tích, tổng hợp, kết luận, so sánh, liên hệ). Căn cứ vào các chủ đề tích hợp giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đối chiếu với nội dung bài học để đặt ra mục tiêu tích hợp trong bài soạn. Mục tiêu tích hợp phải được xác định cụ thể về kiến thức, kỹ năng, thái độ. 4. Nội dung thực hiện và những kinh nghiệm đạt được: 4.1. Chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với tinh thần quốc tế vô sản chân chính và trong sáng. Khi dạy bài 10, lớp 9: Lý tưởng sống của thanh niên , để giáo dục tư tưởng tinh thần đoàn kết quốc tế, “Bốn phương vô sản đều là anh em” của Bác. Sau khi sang Pháp Người nhận xét: “Người Pháp ở Pháp tốt hơn người Pháp ở Đông Dương”, ở đâu cũng có hai loại người người bóc lột và người bị bóc lột, để thấy được chúng ta chống bọn thực dân Pháp kẻ đã gây bao đau thương, tang tóc cho các dân tộc thuộc địa chứ người Pháp tiến bộ là bạn chúng ta. Phải tranh thủ sự giúp đỡ của họ. Sau khi dùng lược đồ giới thiệu hành trình cứu nước của Bác. Từ đó giúp học sinh hiểu được quyết tâm, hoài bão của Bác ra đi tìm con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam. Khi dạy bài 5, lớp 9: Tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới. Qua việc lồng ghép giáo dục tư tưởng tình đoàn kết quốc tế “ Bốn phương vô sản đều là anh em” từ đó hình thành cho học sinh cách nhìn nhận “bạn” “thù” một cách rõ ràng, rành mạch. Chúng ta căm thù chủ nghĩa đế quốc, thực dân kẻ đã xâm lược đất nước ta, gây bao nỗi đau khổ cho dân tộc ta chứ nhân dân tiến bộ các nước là anh em, như nhân dân Pháp, Mĩ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ họ đã tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến của ta. Ngày nay đất nước đã thống nhất, Nhà nước ta thực hiện đường lối đối ngoại tích cực quan hệ giao lưu với thế giới, nhưng vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. chúng ta “Hòa nhập chứ không hòa tan, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Cả dân tộc ta khép lại quá khứ hướng tới tương lai để xây dựng đất nước. Đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, chúng ta khép lại quá khứ chứ không bao giờ quên quá khứ, “ Ai bắn vào quá khứ bằng phát súng lục, thì tương lại sẽ trả lời bằng đại bác” Vì vậy trong dạy Giáo dục công dân lồng ghép tư tưởng này để học sinh nhìn nhận đúng đắn đường lối đối ngoại của Đảng ta. Khi dạy bài 10, lớp 9: Lý tưởng sống của thanh niên, để giáo dục tư tưởng: Suốt cuộc đời hoạt động của Bác là giải phóng giai cấp, giải phóng loài người xây dựng một xã hội tốt đẹp không còn người bóc lột người. Tháng 7/1920 Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các dân tộc và thuộc địa” của Lê-nin . Ngồi một mình trong phòng Người sung sướng muốn phát khóc lên Người nói một mình như đang nói với toàn thể dân tộc “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”. Như vậy từ một người yêu nước chân chính Người đến với chủ nghĩa Mác –Lê-nin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn đã giải phóng cho dân tộc ta khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến. Xuất phát từ lòng yêu nước, từ sự chứng kiến nỗi thống khổ của người dân lao động, nỗi nhục của người dân bị mất nước. Nguyễn Ai Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc. Ước mơ giải phóng quê hương gắn liền với nguyện vọng giải thoát người lao động; tình yêu nước thiết tha đã hàm chứa tình yêu thương con người, yêu thương nhân dân, mở rộng ra là tình yêu thương những con người lao động bị áp bức, bóc lột trên toàn thế giới. Lòng yêu nước, yêu nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành tinh thần đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, lòng nhân ái. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu hút được sự ủng hộ, cổ vũ nhiệt tình của bạn bè quốc tế, Người luôn giáo dục cán bộ, đảng viên, nhân dân tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc. Chỉ có tinh thần đoàn kết mới chiến thắng mọi kẻ thù. Người nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công” Khi dạy bài 7, lớp 9: Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc Bác Hồ không những tiếp nhận truyền thống đạo đức của dân tộc như: yêu quê hương đất nước, nhân ái, khoan dung, nhân nghĩa, cần cù lao động, giản dị, tiết kiệm, liêm khiết, chí công vô tư, khiên tốn. Mà còn phát huy truyền thống đó bằng cách thực hiện tốt các giá trị đạo đức dân tộc nên đã trở thành tấm gương đạo đức trong sáng, cao đẹp tỏa sáng để mọi người neo theo. (Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tham khảo “Kể chuyện Bác Hồ”- tập 4, tr 8-9 hoặc “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, NXB Giáo dục, tr. 459-474, 466-468.) Cũng với bài này giáo viên có thể kể chuyện: “Thấu hiểu phong tục của một dân tộc” (Trích Kể chuyện Bác Hồ”- tập 4) giáo dục học sinh về tư tưởng của Bác, Bác Hồ không những yêu thương, quý trọng người dân lao động mà còn thấu hiểu cả phong tục, tập quán của cả những dân tộc các nước mà Bác đã đi qua. 4.2. Tấm gương kiên trì, rèn luyện tự hoàn thiện bản thân, kiên trì phấn đấu để đạt được mục đích ích quốc, lợi dân. Khi dạy bài 11, lớp 9: Trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Giáo viên có thể giảng giải về đức hi sinh của Bác, từ lúc còn thiếu niên cho đến khi trưởng thành Bác luôn học tập phấn đấu không biết mết mỏi trên con đường tìm ra con đường cứu nước của dân tộc Vệt Nam. 4.3. Tấm gương về một con người yêu quê hương, đất nước, thiết tha cống hiến trọn đời mình vì đất nước. Khi dạy bài 17, lớp 9: Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, giáo viên giới thiệu những hình ảnh về Bác, những Vidio clip tư liệu, giáo dục học sinh hiểu rằng thực hiện nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ thiêng liêng và trách nhiệm cao quý của mỗi công dân. Cũng bài này giáo viên có thể kể câu chuyện “Tấm lòng của Bác với thương binh, liệt sỹ” (Trích trong cuốn “Tấm lòng của Bác”-Nxb Công an nhân dân, 2005), giáo viên phân tích lòng yêu thương, quan tâm của Bác đối với thương binh, liệt sỹ và gia đình của họ, điều đó như một sự động viên lớn giúp họ vượt qua khó khăn cống hiến cho đất nước, qua đó giáo viên giáo dục ý thức trách nhiệm của mỗi chúng ta ngày nay đối với những gia đình thương binh, liệt sỹ, có công cách mạng, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. 4.4. Tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Khi dạy Bài 16, lớp 9: Quyền tham gia quản lí Nhà nước, quản lí xã hội của công dân, giáo viên có thể giới thiệu những hình ảnh của Bác đến với đồng bào vùng sâu, vùng xa, tham gia lao động sản xuất, những hình ảnh không chỉ có tính giáo dục đối với các em mà còn đối với mỗi chúng ta, đặc biệt là đối với những người làm công tác lãnh đạo lấy đó mà tự soi rọi lại mình, tự đánh giá mình có phục vụ tốt nhân dân chưa?, hết lòng vì nhân dân chưa? 4.5. Tấm gương của một con người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực vì con người. Đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lòng tin vào nhân dân. Vì vậy, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải tận tuỵ phục vụ nhân dân, xứng đáng với niềm tin của nhân dân. Lòng nhân ái của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đặc trưng ở dung lượng mà còn hàm chứa sự kính trọng và lòng biết ơn, tình nghĩa thuỷ chung, tinh thần đoàn kết sâu sắc. Lòng nhân ái, tình thương yêu của Người đối với nhân dân dù bận trăm công nghìn việc Bác vẫn dành tình thương yêu tha thiết cho các cháu thiếu niên, nhi đồng. 4.6. Tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư , đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Khi dạy Bài 1, lớp 9: Chí công vô tư. Giáo viên có thể phân tích: Cả cuộc đời của Người là tấm gương sáng tuyệt vời về “Cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”. Người sống thanh bạch, đem hết tinh thần và nghị lực đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân,Sự gương mẫu của Người có sức mạnh cổ vũ mạnh mẽ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo. Người luôn đòi hỏi mọi người trước hết phải tự mình “thực hành trước, làm gương rèn luyện trước”. Người căn dặn cán bộ, đảng viên trong mọi hoàn cảnh phải gương mẫu. Đối với thế hệ trẻ, Người khuyên cần xung phong gương mẫu trong công tác, học tập và luôn tự hỏi xem mình đã đóng góp được những gì cho nhân dân và cho Tổ quốc. Sự thống nhất giữa lí tưởng và đời sống trong đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được biểu hiện ở chỗ Người luôn gắn yêu cầu đạo đức với việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng cụ thể. Yêu cầu đạo đức của Người khiến cho mọi lứa tuổi, dù làm việc gì cũng đều có thể tìm thấy những lời giáo huấn của Người để tự hoàn thiện mình. Khi dạy bài 1. Chí công vô tư (GDCD 9), GV có thể tổ chức cho HS thảo luận về tấm gương Chí công vô tư của Bác Hồ. Giáo viên có thể nêu câu hỏi thảo luận cho cả lớp: - Em có suy nghĩ gì về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh? - Điều đó có tác động như thế nào đến tình cảm của nhân dân ta đối với Bác? Sau khi học sinh trả lời giáo viên kết luận: Trong công việc, Bác Hồ luôn công bằng, không thiên vị, Bác luôn đặt lợi ích chung của đất nước, của nhân dân lên trên lợi ích của bản thân. Bác đó dành trọn đời mình cho quyền lợi của dân tộc, của đất nước và cho hạnh phúc của nhân dân. Tình cảm của nhân dân ta đối với Bác : sự tin yêu, kính trọng, khâm phục, tự hào và sự gắn bó và cũng gần gũi, thân thiết. Giáo viên cũng có thể kể chuyện “Chuyện với người cháu gần nhất của Bác Hồ”, NXB Thanh niên, tr 38-40 và giáo dục Bác luôn đặt lợi ích chung của đất nước của nhân dân lên trên lợi ích của bản thân. 4.7. Tấm gương tôn trọng kỉ luật và pháp luật, không dành cho mình bất cứ đặc quyền, đặc lợi nào. Khi dạy bài 18: Sống có đạo đức và tuân theo pháp luật (GDCD 9), giáo viên có thể kể chuyện “Bác không thăm những người như mẹ con thím thì còn thăm ai?” (Kể chuyện Bác Hồ Sđd, T.4, tr. 11), giáo viên phân tích cho học sinh thấy được sự gần gũi, thân thiện, quan tâm đến hầu hết các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những người có hoàn cảnh khó khăn, kém may mắn. Cũng với bài này giáo viên có thể kể câu chuyện “Chủ tịch nước cũng không có đặc quyền” (Trích trong Bác Hồ với chiến sĩ, tập 1 của Nguyễn Dung Nxb QĐND, Hà Nội, 2001) giáo viên phân tích câu nói của Bác “Tôi là một công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nên tôi không thể vượt khỏi thể lệ của Tổng tuyển cử đã định. Tôi ra ứng cử ở Hà Nội nên cũng không thể ra ứng cử ở nơi nào nữa. Xin cảm tạ đồng bào đã có lòng yêu tôi và yêu cầu toàn thể đồng bào hãy làm tròn nhiệm vụ người công dân trong cuộc Tổng tuyển cử sắp tới” giáo dục học sinh: Dù đã là Chủ tịch nước nhưng Bác vẫn thực hiện đúng sự công bằng và không nhận về mình một sự đặt ân nào. Giáo viên cũng có thể kể câu chuyện “Gương mẫu tôn trọng luật lệ”( Trích trong cuốn Kể chuyện Bác Hồ Sđd) giáo viên phân tích những việc làm của Bác: khi vào chùa thi cởi dép ra, khi gặp đèn đỏ trên đường Bác vẫn cho xe dừng lại mà không sử dụng quyền ưu tiên của mình, qua câu chuyện chúng ta càng hiểu hơn về sự tôn trọng kỉ luật và pháp luật của Bác là đáng để chúng ta học tập và noi theo. 3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn nghiên cứu, thực hiện: 3.1. Các hình thức để giáo dục học sinh, áp dụng trong bài giảng. Có nhiều hình thức lồng ghép khá
File đính kèm:
- SKKN_mon_gdcd.doc