Sáng kiến kinh nghiệm: Làm thế nào để nâng cao tính tích cực, tự giác học tập của học sinh đối với bộ môn Toán

Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.

 Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.

 Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường trang bị cho học sinh.

 Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.

 Cụ thể:

Đối với học sinh khá – giỏi thì giáo viên có thể dùng phương pháp giải quyết vấn đề hoặc nhóm nhỏ.

Đối với học sinh trung bình – yếu thì giáo viên không thể dùng phương pháp giải quyết vấn đề được mà phải dùng phương pháp đàm thoại, thuyết trình, gợi mở, không những thế mà còn phải giảng thật kĩ thì học sinh mới nắm được vấn đề.

Chúng ta đã biết trong toán học thì sử dụng đa dạng các phương pháp:

Chẳng hạn trong hình học thì phương pháp trực quan quy nạp có thể nói là không thể thiếu được. Chính vì vậy trong bài dạy giáo viên phải đưa vào các mô hình hay các hình ảnh trực quan để giúp học sinh hiểu bài một cách dễ dàng nhất có thể kể như sau:

• Khi dạy về đoạn thẳng giáo viên phải chuẩn bị một đoạn thẳng là que hình trụ dài có hai đầu là hình hai chấm tròn nhỏ.

 

doc22 trang | Chia sẻ: xuannguyen98 | Lượt xem: 705 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm: Làm thế nào để nâng cao tính tích cực, tự giác học tập của học sinh đối với bộ môn Toán, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặc điểm tâm sinh lí của học sinh trung học cơ sở còn ham 
chơi chưa chú trọng đến việc học, chưa chủ động tiếp nhận kiến thức, ngoài ra còn có một số học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số. Vì vậy, xây dựng kĩ năng tự giác học tập cho học sinh trung học cơ sở có tác dụng mạnh mẽ và to lớn trong quá trình dạy học.
	²Tôi nghỉ rằng tự học là phương pháp tốt nhất để tiếp thu kiến thức một cách chủ động, vững chắc cho một quá trình tự vận động và có thể nói điều này được rút ra từ chính bản thân. Dù bài giảng có hay đến đâu, giáo viên có nhiệt tình đến mấy cũng không thay thế được sự độc lập suy nghĩ, sự chọn lọc để tiếp thu kiến thức mới của học sinh. Trong dạy học, tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp thu các kiến thức, kĩ năng, biến những cái đó thành kiến thức, kỹ năng của mình. Học như vậy, khiến sự hiểu biết của các em vững chắc hơn, hứng thú của các em sẽ được tăng cường hơn. Dạy học phát huy tính tích cực giúp hoạt động tư duy của học sinh được khơi dậy và phát triển, giúp hình thành và phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ.
	² Vì vậy tôi chọn đề tài "Làm thế nào để nâng cao tính tích cực, tự giác học tập của học sinh đối với bộ môn toán " là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết để nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm các mục đích sau:
²Giáo viên thấy được việc tự học của học sinh có ảnh hưởng như thế nào đối với việc tiếp thu kiến thức trong tiết học và vào các hoạt động dạy học trên lớp.
²Giúp giáo viên thấy rõ tầm quan trọng của việc “giúp học sinh nâng cao tính tự học, tự rèn” đối với việc nâng cao chất lượng môn. 
²Giúp học sinh nắm được các kiến thức cơ bản của môn học một cách vững vàng.
²Học sinh thấy được tầm quan trọng của việc tự học, tự rèn đối với chính bản thân mình.
²Học sinh hệ thống được các kiến thức và bài tập từ dễ đến khó nhờ việc tự học, tự rèn.
²Điều quan trọng hơn cả là góp phần làm nâng cao chất lượng môn học, từ đó góp phần giúp học sinh yêu thích môn toán nhiều hơn. Giúp giảm tình trạng học sinh bỏ học vì không hiểu bài.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Tôi quyết định nghiên cứu đề tài: “Làm thế nào để nâng cao tính tích cực, tự giác học tập của học sinh đối với bộ môn toán” với đối tượng là học sinh ba lớp 7a1 và 7a2 , 7a3.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tôi cũng muốn nghiên cứu rộng hơn nữa, tuy nhiên cũng còn nhiều hạn chế nên tôi chỉ nghiên cứu trong phạm vi toán 6,7.
.
	 Phần B. NỘI DUNG
	 –— ² ˜™ ² –— 
I. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
Sau khi được phân công giảng dạy toán lớp 7 tôi đã khảo sát các vấn đề trên thông qua 3 lớp 7a1 (có 34 học sinh); 7a2 (có 37 học sinh) và 7a3 (có 34 học sinh) kết quả như sau:
{ Số lượt học sinh không chuẩn bị bài trong một tuần chiếm tỉ lệ 38,1 % (480/1260 lượt).
{ Số lượt học sinh không phát biểu ý kiến trong giờ học và số học sinh rụt rè trong giờ học trên một tuần chiếm tỉ lệ khoảng 52,4 % (660/1260 lượt).
{ Chất lượng đầu năm trên trung bình chiếm tỉ lệ 62,9 % (65/ 105 học sinh ).
II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Trước tiên ta phải hiểu thế nào là tính tích cực, tự giác học tập?
	à Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn
	àĐể kích thích tính tự giác, tích cực, học tập của học sinh trước hết đòi hỏi 
người  giáo viên phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến học sinh tức là
phải có  năng lực sư phạm và tạo hứng thú học tập cho học sinh . đòi hỏi ở người  giáo viên rất nhiều điều. Vậy thế nào được gọi là năng lực sư phạm? Năng lực sư phạm là những đặc điểm tâm lí mà nó giúp cho giáo viên hoạt động có hiệu quả, năng lực sư 
phạm gồm: 
     *Năng lực khoa học. 
     *Năng lực hiểu học sinh.
     *Năng lực ngôn ngữ.
     *Năng lực tổ chức. 
     *Năng lực phân phối chú ý. 
     *Năng lực trình bày bài giảng. 
     *Óc tưởng tượng sư phạm .
      	à Ngoài ra giáo viên muốn phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh  thì  cần phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức thích hợp. Hiện nay, để tiến kịp với thời đại thì cần thay đổi một số phương pháp để phát huy tính tích cực của  học sinh để phù hợp với từng nội dung môn học, từng đối tượng và trong quá trình dạy  học tôi đã sử dụng linh hoạt các phương pháp sau :
  1.Phương pháp thuyết minh.         	 
 2.Phương pháp đàm thoại.            	 
  3.Phương pháp thảo luận nhóm.             	 
  4.Phương pháp hỏi đáp.                 	
  5.Phương pháp thực hành đo đạc.
  6.Phương pháp trò chơi học tập. 
 7. Phương pháp khảo sát điều tra.
 8. Phương pháp đặt vấn đề và giải quyết vấn đề.	
 9.Phương pháp thực hành luyện tập
 10.Phương pháp trực quan. 
	àTính Tích Cực học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như:
- Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn
- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác nhau về một số vấn đề
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
2. Một số giải pháp giúp học sinh trở nên tích cực, tự giác học tập	
a.Về mặt kiến thức trong tiết dạy:
Vấn đề quan trọng nhất là giáo viên phải làm cho học sinh hiểu bài, làm được bài tập về nhà và kể cả ở trên lớp. Khi học sinh đã hiểu bài rồi thì các em cảm thấy tự tin hơn, mạnh dạn hơn. Không những thế mà còn thôi thúc lòng hăng say học tập của các em. Do đó tôi đã đưa ra một số biện pháp sau:
Đối với học sinh khá - giỏi trong tiết học giáo viên không nên đưa ra bài tập quá dễ, vì như thế sẽ gây cho các em cảm thấy nhàm chán. Hơn nữa lại không kích thích được tính sáng tạo, óc tò mò tìm hiểu khám phá vấn đề mới của các em. Cho nên trong tiết dạy giáo viên nên lồng vào vài bài tập khó, bài tập mang tính chất thực tế trong cuộc sống để đố hoặc vài câu hỏi khó gây sự hứng thú tích cực đối với học sinh.
Đối với học sinh trung bình - yếu thì phải cho bài tập vừa sức để học sinh có cơ hội thể hiện bản thân. Giáo viên không nên cho bài tập quá khó, vì nếu cho bài tập quá khó so với học lực của các em thì sẽ gây sự chán nãn. Bài tập khó, học sinh thấy mình làm bài không được nên dễ dẫn đến mặc cảm, rồi cho rằng mình học không được. Ngoài ra, giáo viên khi giao bài tập về nhà cũng phải vừa sức đối với các em. Trong giờ học giáo viên nên quan tâm đến những em có học lực yếu nhiều hơn. 
Về kiến thức để giúp các em nhớ lâu và thuộc bài thì chỉ có cách là: “Mưa dầm thấm đất” nghĩa là trong giờ học nào giáo viên cũng cho học sinh nhắc lại kiến thức cũ quan trọng mỗi ngày một ít, từ đó giúp học sinh nhớ bài lâu hơn. Giáo viên khuyến khích học sinh học thuộc ngay tại lớp bằng cách cho điểm nếu đọc được nội dung kiến thức ngay sau bài vừa học.
b.Về phương pháp trong tiết dạy: Nên sử dụng đa dạng các phương pháp truyền thống lẫn hiện đại và cần để ý đến các điều sau:       
 ÃDạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
	Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động "dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, 
thực hành, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
	Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
à Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
	Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.
 ÃTăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
	Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà trường phải chuẩn bị cho học sinh. 
	Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ được sử dụng phổ biến. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. 
 ÃKết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
	Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
	Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường trang bị cho học sinh.
	Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.	
à Cụ thể:
²Đối với học sinh khá – giỏi thì giáo viên có thể dùng phương pháp giải quyết vấn đề hoặc nhóm nhỏ.
²Đối với học sinh trung bình – yếu thì giáo viên không thể dùng phương pháp giải quyết vấn đề được mà phải dùng phương pháp đàm thoại, thuyết trình, gợi mở, không những thế mà còn phải giảng thật kĩ thì học sinh mới nắm được vấn đề.
²Chúng ta đã biết trong toán học thì sử dụng đa dạng các phương pháp:
Chẳng hạn trong hình học thì phương pháp trực quan quy nạp có thể nói là không thể thiếu được. Chính vì vậy trong bài dạy giáo viên phải đưa vào các mô hình hay các hình ảnh trực quan để giúp học sinh hiểu bài một cách dễ dàng nhất có thể kể như sau:
Khi dạy về đoạn thẳng giáo viên phải chuẩn bị một đoạn thẳng là que hình 	trụ dài có hai đầu là hình hai chấm tròn nhỏ.
Dạy đường thẳng thì giáo viên phải chuẩn bị một sợi chỉ, rồi đem sợi chỉ đó căng thẳng ra về hai phía. 
Dạy về mặt phẳng thì cần chuẩn bị trên máy chiếu hình ảnh như sau: Cho máy chiếu hình chữ nhật có nền màu xanh, sau đó cho màn hình trãi rộng ra bốn phía đều là màu xanh lúc đó hoc sinh mới cảm nhận sâu hơn về mặt phẳng.
Dạy về tia cũng vậy ta phải chuẩn bị một vật có một đầu là hình một chấm tròn nhỏ (viên phấn được mài tròn) trên đó có gắng một que gỗ nhỏ hình trụ dài. 
 .
c. Về tâm lý – tình cảm: 
	Trong khi dạy học chúng ta cũng cần khuyến khích động viên các em bằng một lời khen dù đó chỉ là một câu trả lời đơn giản. Để học sinh thấy rằng bản thân mình cũng có ưu điểm, từ đó thôi thúc lòng hăng say học tập của các em. Tuy nhiên giáo viên không quên nhắc nhở hoặc phê bình các em đúng lúc, để các em nhận thấy việc mình làm là chưa đúng cần phải khắc phục.
	Ví dụ:
Em A thường ngày là một học sinh học trung bình hoặc yếu nhưng trong tiết học em đã trả lời đúng một câu hỏi hoặc phát biểu đúng ý một mệnh đề toán học thì chúng ta nên khen một câu “Chà hôm nay em có tiến bộ hơn rồi đó hoặc hôm nay em có chuẩn bị tốt, giỏi” cả lớp tặng cho bạn một tràn pháo tay nào. Như thế sẽ làm cho tinh thần học tập của em đó lập tức có sự thay đổi ngay trong giờ học và cả hôm sau nữa.
Em B thường ngày học khá tốt nhưng hôm nay trả lời câu hỏi không tốt, ta có thể nhắc nhở nhẹ nhàng như: Mọi hôm em trả lời rất tốt nhưng sao hôm nay lại trả lời như vậy, em cần phải cẩn thận hơn nhé.
d. Hướng dẫn sử dụng dụng cụ: 
	Chọn dụng cụ sao cho phù hợp nhất chẳng hạn: để đo góc thì nên chọn loại thước đo góc sao cho có độ chia nhỏ nhất là 1 độ (không nên dùng loại thước đo độ có độ chia nhỏ nhất là 2 độ ,vì độ chính xác không cao). 
Loại thước có độ chia nhỏ nhất là 2 độ.
Loại thước có độ chia nhỏ nhất là 1 độ.
e. Kể chuyện về các nhà toán học trong và ngoài nước: 
Trong tiết dạy có thể kể một vài câu chuyện vui, kể về tiểu sử các nhà toán học nổi tiếng hoặc vài thông tin quan trọng trong đời sống mang tính giáo dục thực tế, để làm giảm sự căng thẳng, giúp các em tiếp thu bài nhanh hơn. Sau đây là một số câu chuyện về các nhà toán học:
Nhà toán học: Cauchy
	Cauchy sinh ngày 21 tháng 8 năm 1789. Nhà Toán học đầy óc sáng tạo này có rất nhiều công trình toán học, chỉ thua Euler mà thôi. Ông là anh cả của 6 em trong một gia đình Thiên Chúa Giáo. Thời niên thiếu ông trải qua cuộc cách mạng ở Pháp. 
	Bố Cauchy phải đem cả gia đình về quê, phải thường xuyên sống bằng hoa quả và rau tự trồng. Do đó mà Cauchy luôn ốm yếu vì suy dinh dưỡng nhưng bộ não của ông thì ngược lại. Cauchy qua đời đột ngột vào ngày 23 tháng 5 năm 1857 lúc 68 tuổi. Một vài giờ trước khi mất, Cauchy để lại câu nói nổi tiếng: “Những con người sẽ mất, nhưng những công trình của họ vẫn ở lại”.
Nhà toán học: Fermat
	Pierre de Fermat sinh ngày 17 tháng 8 năm 1601 tại Pháp, ông mất lúc 63 tuổi vào năm 1665. Fermat là một học giả vĩ đại, một nhà toán học nổi tiếng và là cha đẻ của lý thuyết số hiện đại. Fermat xuất thân từ một gia đình khá giả, ông học ở Toulouse và lấy bằng cử nhân luật dân sự rồi làm chánh án nhưng lại vô cùng say mê toán học với thói quen nổi tiếng: “ Ghi các ghi chú bên lề các quyển sách”. Đặc biệt, ông được nhớ đến qua sự khám phá một phương pháp đầu tiên để tìm cực đại và cực tiểu của tung độ của đường cong. Ông cũng nghiên cứu về lí thuyết số và có nhiều đóng góp trong các lĩnh vực hình học giải tích, xác suất và quang học. Sau đây là định lý cuối cùng của Fermat“Không thể tách rời bất kỳ lũy thừa bậc lớn hơn hai nào của một số nguyên thành hai lũy thừa cùng bậc của hai số nguyên khác”.
Nhà toán học: Ơ-clit
	Euclid sinh ở Athena, sống khoảng 330-275 trước Công nguyên, được hoàng đế Ptolemy I mời về làm việc ở Alexandria, một trung tâm khoa học lớn thời cổ trên bờ biển Địa Trung Hải.
	Bằng cách chọn lọc, dùng các tính chất trước để suy ra tính chất sau, bộ sách cơ sở đồ sộ của Euclid đã đặt nền móng cho môn hình học cũng như toàn bộ toán học cổ đại. Bộ sách gồm 13 cuốn: Sáu cuốn đầu gồm các kiến thức về hình học phẳng, ba cuốn tiếp theo có nội dung số học được trình bày dưới dạng hình học, cuốn thứ mười gồm các phép dựng hình có liên quan đến đại số, 3 cuốn cuối cùng nói về hình học không gian.
Trong cuốn thứ nhất, Euclid đưa ra 5 định đề:
	1. Qua hai điểm bất kì, luôn luôn vẽ được một đường thẳng
	2. Đường thẳng có thể kéo dài vô hạn.
	3. Với tâm bất kì và bán kính bất kì, luôn luôn vẽ được một đường tròn.
	4. Mọi góc vuông đều bằng nhau.
	5. Nếu 2 đường thẳng tạo thành với 1 đường thẳng thứ 3 hai góc trong cùng phía 	có tổng nhỏ hơn 180 độ thì chúng sẽ cắt nhau về phía đó.
Và 5 tiên đề:
	1. Hai cái cùng bằng cái thứ ba thì bằng nhau.
	2. Thêm những cái bằng nhau vào những cái bằng nhau thì được những cái bằng 	 nhau.
	3. Bớt đi những cái bằng nhau từ những cái bằng nhau thì được những cái bằng 	 nhau.
	4. Trùng nhau thì bằng nhau.
	5. Toàn thể lớn hơn một phần.Nhà toán học Ơ-clit
Nhà Toán Học Việt Nam: Lê Văn Thiêm
Tính toán nổ mìn buồng mỏ đá Núi Voi lấy đá phục vụ xây dựng khu gang thép Thái Nguyên (1964).
Phối hợp với Cục Kỹ thuật Bộ Quốc phòng lập bảng tính toán nổ mìn làm đường (1966).
Phối hợp với Viện Thiết kế Bộ Giao thong Vận tải tính toán nổ mìn định hướng để tiến hành nạo vét kênh Nhà Lê từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh (1966-1967).
 	Lê Văn Thiêm là Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học toán học đầu tiên của Việt Nam, một trong số các nhà khoa học tiêu biểu nhất của Việt Nam trong thế kỷ 20. Lê Văn Thiêm là nhà toán học Việt Nam được chính phủ Việt Nam phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 vào năm 1996 về những công trình toán học đặc biệt xuất sắc. Ông sinh ngày 29 tháng 3 năm 1918 tại xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình có truyền thống khoa bảng.
	Ông là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ toán học ở Đức năm 1944 về giải tích phức, Luận án Tiến sĩ Quốc gia ở Pháp năm 1948 và cũng là người Việt Nam đầu tiên được mời làm giáo sư toán học và cơ học tại Đại học Tổng hợp Zurich, Thụy Sĩ vào năm 1949. 	Ông mất ngày 3 tháng 7 năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Giáo sư Lê Văn Thiêm là một tài năng toán học xuất sắc, tầm cỡ quốc tế, là người có công đầu đặt nền móng xây dựng và phát triển nền toàn học Việt nam.Ông là một trong những người đầu tiên giải được bài toán ngược của lý thuyết phân phối giá trị hàm phân hình, hiện nay trở thành kết quả kinh điển trong lý thuyết này. Năm 1963, nghiên cứu công trình về ứng dụng hàm biến phức trong lý thuyết nổ, vận dụng phương pháp Lavrentiev, giáo sư Thiêm cùng các học trò tham gia giải quyết thành công một số vấn đề thực tiễn ở Việt Nam như:
Nhà Toán Học Việt Nam: Vũ Hà Văn.
	Vũ Hà Văn sinh ngày 12/06/1970 tại Hà Nội trong những năm tháng ác liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Giữa những năm tháng giặc Mỹ điên cuồng đánh phá miền Bắc, cuộc sống của anh ngay từ khi còn nhỏ đầy vất vả, thiếu thốn. 
	Bố của anh là nhà thơ nối tiếng Vũ Quần Phương, còn mẹ là bà Đào Thị Hường là một dược sĩ.
	Một câu chuyện cảm động về mẹ anh Văn vẫn còn nhớ mãi khi trước hôm thi đại học Bách khoa Hà Nội, mẹ đã thức cùng anh để “Truy bài” môn Hóa.Thật tình cờ, rất nhiều câu trong đề thi lại rơi đúng vào phần đã được hai mẹ con ôn tập từ tối hôm trước. Vì vậy, không khó để Vũ Hà Văn có thể kiếm được điểm 10 tròn trĩnh môn Hóa. Nhờ công sức của mẹ, anh đã đỗ Á khoa của đại học Bách Khoa Hà Nội.Trong quãng thời gian học tập tại Hungary của Vũ Hà Văn tất cả các đồ dùng cần thiết cho cuộc sống như quần áo, sách vở, radio... Ông đều phải mua lại của những sinh viên tốt nghiệp về nước với giá chỉ bằng 20% - 30% so với đồ mới. Những năm ông học ở Hungary thiếu thốn lắm, học bổng chỉ đủ ăn thế mà sau 3 năm học đầu, Văn vẫn tiết kiệm được 100 USD mang về cho bố mẹ.
Nhà Toán Học Việt Nam: Ngô Bảo Châu
Sinh năm 1972, GS Ngô Bảo Châu từng là học sinh Chuyên toán - tin thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội. Trong hai năm 1988 và 1989 (học lớp 11 và 12), Ngô Bảo Châu đã giành 2 Huy chương Vàng Olympic Toán quốc tế (IMO) ở Canada và Đức và là học sinh Việt Nam đầu tiên giành được 2 Huy chương Vàng IMO.
Năm 18 tuổi, Ngô Bảo Châu được Chính phủ Pháp cấp học bổng để theo học Đại học Paris 6. Hai năm sau, Ngô Bảo Châu quyết định thi vào hệ đào tạo tiến sĩ của Đại học Sư phạm Paris, trường đại học danh tiếng nhất nước Pháp, nơi đã từng đào tạo nên những nhà khoa học Việt Nam nổi tiếng như: Hoàng Xuân Hãn, Lê Văn Thiêm, Trần Đức Thảo... và đã đậu thủ khoa.
Năm 25 tuổi, Ngô Bảo Châu bảo vệ luận án Tiến sĩ về Bổ đề cơ bản của Jacquet. Sau đó, làm việc trên một số bài toán khác và bảo vệ luận án habilitation (tương đương Tiến sĩ khoa học) ở độ tuổi 31.
Năm 2005, Hội đồng chức danh GS Nhà nước Việt Nam đã xét đặc cách công nhận chức danh GS đối với Tiến sĩ toán học Ngô Bảo Châu. Vào thời điểm đó, ông là vị

File đính kèm:

  • docSang_kien_KN_lam_the_nao_de_tich_cuc_hoc_tap_cua_hoc_sinh.doc