Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục một số kỹ năng sống cơ bản cho học sin lớp chủ nghiệm

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

 Hiện nay, Bộ GD&ĐT đã xây dựng và triển khai các chuyên đề giáo dục kĩ năng sống ở các cấp học, ở mọi lứa tuổi. Chương trình giáo dục kĩ năng sống thông qua các tiết sinh hoạt dưới cờ, tiết sinh hoạt chủ nhiệm, tiết ngoại khóa, những chuyến đi tham quan – hướng nghiệp được bắt đầu bằng những kĩ năng đơn giản, đời thường gần gũi với các em như: chào hỏi, bắt tay, cám ơn, xin lỗi, quan sát, lắng nghe, giữ gìn vệ sinh môi trường, chấp hành luật an toàn giao thông, tự giác tham gia phong trào, tinh thần trách nhiệm đối với bản thân với trường với lớp, tính tự lập khi đi xa.Một loạt các chuyên đề giáo dục kĩ năng sống, được ứng dụng phù hợp với quá trình phát triển tâm lý tuổi vị thành niên, giúp các em tự rèn luyện nhân cách và khả năng tự lập và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

 

doc19 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 658 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục một số kỹ năng sống cơ bản cho học sin lớp chủ nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiết sinh hoạt chủ nhiệm, tiết ngoại khóa, những chuyến đi tham quan – hướng nghiệp được bắt đầu bằng những kĩ năng đơn giản, đời thường gần gũi với các em như: chào hỏi, bắt tay, cám ơn, xin lỗi, quan sát, lắng nghe, giữ gìn vệ sinh môi trường, chấp hành luật an toàn giao thông, tự giác tham gia phong trào, tinh thần trách nhiệm đối với bản thân với trường với lớp, tính tự lập khi đi xa...Một loạt các chuyên đề giáo dục kĩ năng sống, được ứng dụng phù hợp với quá trình phát triển tâm lý tuổi vị thành niên, giúp các em tự rèn luyện nhân cách và khả năng tự lập và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
 Qua nhiều năm chủ nhiệm và giảng dạy tôi nhận thấy kĩ năng sống của các em còn rất yếu và có thể nói các em không hình dung được kĩ năng sống là như thế nào.Từ thực tế đó tôi từng bước giáo dục kĩ năng sống cho các em thông qua các giờ dạy chuyên môn, lồng ghép vào các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp và đặc biệt là lớp chủ nhiệm, dần dần các em cũng hiểu được phần nào về kĩ năng sống. Đây cũng là hành trang cho bản thân khi các em hòa mình vào cuộc sống hiện đại, một khi các em có được kĩ năng sống cơ bản thì tất nhiên ý thức, đạo đức của các em cũng sẽ được nâng lên từ đó chất lượng giáo dục của nhà trường cũng ngày càng đạt hiệu quả cao.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
 Tập thể lớp chủ nhiệm 11B và cùng với một số lớp khác trong giờ giảng dạy chuyên môn của trường THPT Trần Văn Bảy.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Giáo viên chủ nhiệm bước đầu tìm hiểu, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng, suy nghĩ của các em để có hướng giáo dục phù hợp.
 - Bước đầu rèn luyện kĩ năng sống cơ bản cho các em thông qua các hoạt động từ đơn giản đến phức tạp để các em tự hình thành kĩ năng sống cơ bản cho bản thân.
 - Giáo viên chủ nhiệm phối hợp với giáo viên bộ môn, đoàn thanh niên, phụ huynh học sinh và những người xung quanh để giáo dục kĩ năng sống cho các em một cách phù hợp và hiệu quả.
5. Tính mới của đề tài
 Nhận thức của một số cán bộ, giáo viên về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh chưa đúng mức. Bởi vây, trong những năm qua, ở trường THPT Trần Văn Bảy tình trạng học sinh đánh nhau, vô lễ với thầy cô giáo, bỏ học, không hứng thú học tập, yêu sớm, sa vào các tai tệ nạn xã hội vẫn còn xuất hiện mặc dù có giảm so với trước. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên như tác động của cơ chế thị trường, xu hướng toàn cầu hóa, sự thiếu trách nhiệm của gia đình, ảnh hưởng của mạng xã hội và trò chơi trực tuyến nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là do nhận thức, ý thức còn hạn hẹp, thiếu kĩ năng sống cần thiết. Đối tượng học sinh ở thị trấn dễ sa vào những tệ nạn xã hội, trò chơi điện tử bạo lực hay tệ nạn ma túy, cờ bạc học sinh ở các xã nông thôn tỏ rõ sự ngại ngùng, ngại nói lên ý kiến của mình, rụt rè không dám phát biểu ý kiến. Khi quan sát và tiếp xúc với các em học sinh, tôi nhân thấy ở các em còn thiếu rất nhiều những kĩ năng sống căn bản như: Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xử lý tình huống, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng ứng phó với các tình huống bất thường, kĩ năng hợp tác và chia sẽ... Những vấn đề đã và đang diễn ra xung quanh các em, liên quan trực tiếp đến các em nhưng các em không để ý. Khi gặp những tình huống cần xử lý các em tỏ ra rất lung túng, thụ động, văn hóa xem, nghe, nhìn của các em cũng còn nhiều việc đáng bàn. Đặc biệt là ý thức khi tham gia các hoạt động tập thể còn thiếu tích cực, thiếu tự giác. Vì vậy công tác giáo dục kỹ năng sống cho các em cần phải được tiến hành ngay, xã hội ngày càng hiện đại thì con người cũng cần được chỉnh chu để bắt nhịp với cuộc sống.
PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
a. Giáo dục kỹ năng sống là gì?
 Giáo dục kĩ năng sống là một quá trình tác động sư phạm có mục đích, có kế hoạch nhằm hình thành năng lực hành động tích cực, có liên quan tới kiến thức và thái độ, giúp cá nhân có ý thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội, thực hiện công việc, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của cuộc sống hàng ngày
 Kĩ năng sống được hình thành theo nhiều cách khác nhau, tùy vào môi trường sống và giáo dục có thể giúp học sinh làm chủ bản thân, ứng xử phù hợp với cộng đồng và xã hội, thích nghi, học tập hiệu quả, nâng cao sức khỏe tinh thần và thể chất, ứng phó tích cực trong các tình huống của cuộc sống. Ví dụ như trẻ em vùng biển thì có một số kĩ năng sống khác với trẻ em vùng núi, kĩ năng sống của trẻ em thành phố khác với kĩ năng sống trẻ em nông thôn, kĩ năng sống của trẻ em ngày xưa khác với kĩ năng sống trẻ em bây giờ 
 Tuy nhiên có thể thấy rất rõ ràng là kĩ năng sống luôn gắn bó với các giá trị. Các giá trị sống đúng đắn là kết tinh được truyền lại như sự tôn trọng, sống trách nhiệm, yêu thương, sự tự tin, sự sáng tạo, lòng ham hiểu biết các giá trị này được truyền lại nhằm giáo dục giúp cho con người sống có chuẩn mực và góp phần vào sự tiến bộ của xã hội.
 Kỹ năng sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân, cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống và giúp cho con người xây dựng một xã hội có văn hóa. Các kỹ năng sống có được thông qua rèn luyện. Kĩ năng sống chỉ được hình thành thông qua giáo dục, đào tạo và rèn luyện. Các kĩ năng sống có liên quan và hỗ trợ cho nhau. Ví dụ: Kĩ năng tư duy sáng tạo giúp cho con người tăng khả năng giải quyết vấn đề và đưa ra các quyết định.
 Giáo dục kĩ năng sống là rất quan trọng và cần thiết cho học sinh trung học phổ thông. Giáo dục kĩ năng sống giúp cho các em phát triển nhân cách, thể chất, tình cảm, giao tiếp, ngôn ngữ, tư duy một cách toàn diện, là nền tảng để các em tự tin bước vào đời.
 - Về thể chất: giáo dục kĩ năng sống giúp cho học sinh tăng cường thể chất, sự kiên trì, bền bỉ, tháo vát thông qua các bài học và các hoạt động vận động trong quá trình dạy kĩ năng sống. Học sinh sẽ được rèn luyện sự dẻo dai, khéo léo, kiên trì, nhanh thích ứng với các điều kiện sống thay đổi.
 - Về tình cảm: giáo dục kĩ năng sống giúp các em biết lắng nghe, chia sẻ, sống có trách nhiệm, biết yêu thương, biết ơn công lao của cha mẹ, thầy cô.
 - Về giao tiếp - ngôn ngữ: giáo dục kĩ năng sống các em tự tin, giao tiếp hiệu quả, đặc biệt rèn luyện cách biết lắng nghe, nói chuyện lễ phép, hòa nhã.
 - Về nhận thức: giáo dục kĩ năng sống giúp cho các em có một nền tảng kiến thức, ham mê hiểu biết, khám phá, ham mê học tập suốt đời.
b. Năng lực của giáo viên chủ nhiệm
 - Năng lực quản lý, lãnh đạo: Giáo viên chủ nhiệm thường được giao quản lý một lớp từ 25 học sinh đến 45 học sinh trong 1 năm học hoặc cả 3,4 năm của 1 cấp học. Do đó năng lực quản lý, lãnh đạo phải được coi trọng và đây là việc làm đầu tiên cần đến ở người giáo viên chủ nhiệm. 
 - Năng lực tác động để phát triển nhân cách người học: Mỗi giáo viên chủ nhiệm phải nhận thức sâu sắc công việc quan trọng của mỗi người là làm sao tạo được những điều kiện thuận lợi nhất để mỗi học sinh mình chủ nhiệm có thể “phát triển hết khả năng vốn có của bản thân, hình thành được những tính cách thói quen” như mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông đã đề ra.
 - Năng lực phối hợp các lực lượng giáo dục: Đối tượng giáo dục chủ yếu của giáo viên chủ nhiệm là chính những học sinh chủ nhiệm nhưng họ chỉ thành công khi họ có khả năng tập hợp phối hợp các lực lượng giáo dục để cùng tác động giáo dục học sinh sao cho có hiệu quả.
 - Năng lực giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống
 - Năng lực giáo dục định hướng nghề nghiệp
 - Năng lực tổ chức hoạt động tập thể trải nghiệm sáng tạo (hoạt động ngoài nhà trường)
 - Năng lực giáo dục học sinh kỷ luật tự giác, hoạt động giáo dục giới tính
 Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ là rất cần thiết đặc biệt là đối tượng học sinh lớp chủ nhiệm, giúp các em rèn luyện những hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội, từ đó các em có khả năng ứng phó với các tình huống nảy sinh trong cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và xã hội, có cuộc sống tích cực, chủ động, an toàn, lành mạnh,
2. Cơ sở thực tiễn
a. Thuận lợi
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, phụ huynh học sinh về công tác chủ nhiệm nên giáo viên chủ nhiệm có điều kiện tiếp xúc trao đổi với học sinh để nắm bắt suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng của các em và giúp đỡ các em kịp thời.
- Đây là lớp chọn nên ý thức học tập, thực hiện nội quy, tham gia phong trào khá cao.
 - Hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động hướng nghiệp đã được ban giám hiệu nhà trường quan tâm, chú trọng rất nhiều.
 - Trong các buổi sinh hoạt dưới cờ đoàn thanh niên luôn lồng ghép giáo dục kiến thức nhằm giáo dục kĨ năng sống về luật giao thông, luật bảo vệ tài nguyên và môi trường, kiến thức về quốc phòng an ninh, ôn lại truyền thống các ngày chủ điểm, xây dựng trường học xanh - sạch - đẹp,..được tổ chức thường xuyên và hiệu quả.
 - Bản thân tôi là một giáo viên chủ nhiệm dạy bộ môn sinh học với những kiến thức sinh học rất đa dạng, phong phú, có rất nhiều nội dung để giáo viên đưa vào hoạt động rèn luyện kỹ năng sống giúp học sinh dễ dàng tiếp cận và vận dụng các kiến thức đó vào thực tiễn.
- Công tác giảng dạy tích hợp giáo dục kỹ năng sống của giáo viên bộ môn như môn ngữ văn, lịch sử, địa lý, GDCD, sinh học ... cũng bắt đầu được chú trọng.
b. Khó khăn
 - Sự chỉ đạo và kế hoạch về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh của ngành chưa thực sự rõ ràng, nên việc thực hiện của các trường còn chưa đồng bộ và mang tính tự phát.
 - Vẫn còn một số học sinh thụ động trong học tập và tham gia phong trào.
 - Giáo viên bộ môn đã đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống vào bài giảng nhưng chất lượng và hiệu quả chưa cao. 
 - Nhà trường phân công cho GVCN lớp đảm nhiệm công tác Hướng nghiệp cho học sinh và phối hợp với Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp nhưng hiệu quả và chất lượng của các hoạt động chưa cao. 
 - Công tác giáo dục kĩ năng sống thông qua các hoạt động ngoại khoá, hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh còn mang tình hình thức, việc xác định mục tiêu giáo dục kĩ năng sống chưa được chú trọng đúng mức và đầy đủ. Đội ngũ giáo viên giảng dạy hoạt động ngoài giờ lên lớp không phải là giáo viên chuyên trách. 
 - Thời lượng chương trình của các môn học chính khóa quá nặng nên thời gian dành cho hoạt động ngoài giờ lên lớp không nhiều. Ý thức tích cực, tự giác tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp của một bộ phận học sinh chưa cao. Khi tổ chức các hoạt động ngoại khóa tinh thần hưởng ứng và hợp tác chưa đạt, các em còn mất trật tư, bỏ ra khỏi hàng ngũ, khi được phỏng vấn thì rụt rè, nhút nhát, e ngại.
3. Các giải pháp thực hiện.
 a. Giáo dục kĩ năng sống thông qua dạy học
 Là một giáo viên khi đứng lớp môn sinh học giúp tôi thuận tiện lồng ghép một số kĩ năng liên quan đến môn dạy của mình như: bổ sung thêm các kiến thức về giới tính và sức khỏe sinh sản, các vấn đề liên quan đến môi trường, tài nguyên thiên nhiên, phòng tránh bệnh tật và các tệ nạn xã hội Đối với một số bài thực hành yêu cầu các em chia nhóm và tự mình sưu tập các đoạn phim, tranh ảnh liên quan đến các chủ đề mà giáo viên đưa ra, trình chiếu bằng PowerPoint, cử đại diện nhóm thuyết trình về các đoạn phim và tranh ảnh sưu tập được (tất cả phần chuẩn bị của học sinh được giáo viên kiểm tra, tư vấn thêm). Giáo viên chọn 3 hoặc 4 nhóm làm tốt nhất cho trình bày trước lớp, các nhóm khác xem, nghe và nhận xét rút kinh nghiệm. Tiết thực hành thực hiện theo hình thức trên diễn ra rất vui, sôi nổi với vai trò làm chủ thuộc về các em học sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức và định hướng. Khi làm việc cùng nhau trong một nhóm sẽ giúp các em hiểu nhau hơn, các em có dịp để khẳng định mình, kể cả những em có sức học yếu. Chính điều này sẽ giúp các em yêu mến hơn lớp học và trường học của mình. 
 b. Giáo dục kĩ năng sống thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm
 Một trong những thành công của giáo viên chủ nhiệm là có một đội ngũ ban cán sự nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm cao nên ngay từ khi mới nhận lớp tôi đã nêu nhiệm vụ của từng thành viên trong ban cán sự và những lợi ích mà các em được hưởng, sau đó tôi cho các em tự ứng cử hoặc các bạn đề cử(tự đồng ý nhận nhiệm vụ chứ không bắt buộc) vào ban cán sự của lớp. Hiện tại, các em đều ý thức được công việc của mình cần làm mà không cần phải nhắc nhỡ. Ví dụ: Lớp trưởng: Quản lí lớp, liên hệ với nhà trường, giáo viên chủ nhiệm giải quyết những vấn đề liên quan đến lớp...Lớp phó: Lấy sổ đầu bài, hỗ trợ lớp trưởng quản lí lớp, tổng kết phong trào học tập cuối tuần. Lớp phó lao động: Kiểm tra, đôn đốc các bạn lao động, trực lớp. Phó phong trào: Động viên, lập danh sách các bạn tham gia phong trào. Thủ quỹ: Thu chi phải ghi chép rõ ràng và báo cáo hàng tuần. Tổ trưởng: Ghi nhận việc học tập(phát biểu, điểm tốt) và thực hiện nội quy của các thành viên trong tổ, cuối tuần báo cáo. Tổ phó: Hỗ trợ tổ trưởng. Bí thư đoàn: Liên hệ với đoàn trường, nắm bắt các thông tin liên quan đến lớp, triển khai cho lớp cùng thực hiện. Cờ đỏ: Theo dõi sự phân công và đi trực đúng theo hướng dẫn.
 Tiết sinh hoạt chủ nhiệm có rất nhiều thời gian, ngoài những thông báo cơ bản trong tuần và sơ kết tuần thì thời gian còn lại giáo viên chủ nhiệm tổ chức chơi các trò chơi để tiết sinh hoạt chủ nhiệm thêm phần sinh động và hấp dẫn đồng thời cũng giáo dục được một số kĩ năng sống cho các em. Ví dụ như các trò chơi (học sinh tự chuẩn bị) có thể lồng ghép như:
 - Hiểu ý đồng đội
 - Diễn kịch
 - Thi hát
 - Thuyết trình một số chuyên đề gắn liền với cuộc sống như: Luật giao thông đường bộ, bảo vệ tài nguyên môi trường, quốc phòng và an ninh, ý nghĩa của lá quốc kì, cách vỗ tay, ý nghĩa của nụ cười, cách phòng chống khi có hỏa hoạn, cách xử lí khi bị: Đuối nước, giông bão, những điều lưu ý khi đi du lịch, lợi ích và tác hại của những trang mạng, văn hóa đọc ngày nay, bệnh tự kỉ ...
 Bên cạnh việc tổ chức các trò chơi tôi còn lồng ghép giáo dục hướng nghiệp, định hướng nghề cho các em để các em chọn cho mình một ngành nghề phù hợp với năng lực bản thân, đặc biệt là xu thế việc làm của xã hội ngày nay(vào học thì dễ nhưng có xin được việc làm hay không) nhằm giúp các học đúng môn học ngay từ đầu để có kiến thức vững chắc cho quá trình thi tuyển.
 c. Giáo dục kĩ năng sống thông qua tiết sinh hoạt ngoại khóa
- Trong các buổi sinh hoạt dưới cờ: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức các buổi truyền thông các giá trị sống, kĩ năng sống theo từng chủ đề như: An toàn giao thông, các ngày lễ - kỉ niệm trong tháng (ngày quốc khánh 02/09; ngày thành lập Hội LHTN Việt Nam 15/10, ngày Phụ nữ Việt Nam và ngày sinh Lý Tự Trọng 20/10; ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11; ngày thành lập quân đội nhân dân Việt nam 22/12; ngày HSSV 9/1 và ngày Bến Tre Đồng khởi 17/1; ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam (3/2; ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 26/3 và Quốc tế phụ nữ 8/3; ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước 30/04. Lễ giỗ tổ Hùng Vương10/03 (âl);ngày Quốc tế lao động 1/5, ngày sinh nhật Bác 19/5...), chuyên môn, kể chuyện về Bác, an toàn thực phẩm trong những ngày giáp tết cũng như những tháng có nhiều dịch bệnh, hiến máu nhân đạo, gây quỹ hỗ trợ: nạn nhân chất độc da cam, tết vì học sinh nghèo, đồng bào lũ lụt miền trung, học sinh bị bệnh hiểm nghèo mà gia đình khó khăn... trong các buổi SHDC.
- Một số hoạt động ngoại khóa
 + Giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên đã giúp cho học sinh có những hiểu biết đúng đắn về “ giới tính và sức khoẻ sinh sản”. Từ đó xây dựng cho các em thái độ và kỹ năng sống đúng đắn để có được một tương lai tốt đẹp. Sau khi học sinh có những hiểu biết đúng đắn về vấn đề giới tính và sức khoẻ sinh sản thì các em đã trở thành lực lượng tuyên truyền tốt cho những người xung quanh, đặc biệt là bạn bè cùng trang lứa. 
 + Lao động: quét dọn xung quanh trường giúp các em có thái độ đúng đắn với môi trường. Ý thức giữ vệ sinh trường lớp của các em được nâng cao. Cụ thể là học sinh không vứt rác bừa bãi, tham gia đầy đủ các buổi lao động của trường; Không mang đồ ăn, thức uống vào phòng học; Kiểm tra vệ sinh lớp học sau mỗi buổi học; Bỏ rác đúng nơi quy định.
 + Trồng cây thuốc nam (mục đích để các em biết được công dụng của một số cây thuốc nam và có thể vận dụng khi ở nhà) góp phần làm cho học sinh hiểu thêm về giá trị từng buổi lao động, từ đó giúp các em có ý thức lao động lành mạnh. Lao động công ích giúp các em vận dụng kiến thức vào đời sống như: Trực nhật, vệ sinh lớp học, sân trường, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh cho đẹp trường, lớp. Đây là hoạt động tưởng như là thường xuyên nhưng thật ra trong nhà trường bây giờ học sinh rất ít được tham gia các hoạt động này. Nhưng đây là hoạt động thật sự cần thiết giúp các em thích nghi với cuộc sống xung quanh. Sau này dù có rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt nào thì các em vẫn có thể tồn tại được.
 + Thi bóng rổ, bóng chuyền: Vui chơi, giải trí là nhu cầu thiết yếu của học sinh, đồng thời là quyền lợi của các em. Nó là một loại hoạt động có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với học sinh ở bậc trung học phổ thông, làm thỏa mãn về tinh thần cho các em sau những giờ học căng thẳng, góp phần rèn luyện một số phẩm chất: tính tổ chức, kỉ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái.
 + Thi viết thư pháp với chủ đề: Tôn sư trọng đạo nhằm tạo cơ hội để các em thể hiện tình cảm của mình đối với các thầy cô giáo qua những câu đối thật ý nghĩa cùng với việc thể hiện sáng tạo của mình qua những kiểu viết mà tự các em học được.
 + Tham gia các cuộc thi trên mạng: Luật gia tương lai, Tự hào Việt Nam giúp các em tự trải nghiệm những kiến thức mình đã học được.
 + Thi hùng biện, hát đơn ca góp phần hình thành cho các em kĩ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông, kĩ năng sáng tạo... Đây là một trong những kĩ năng rất quan trọng trong xu thế toàn cầu hóa. 
 + Tham gia hội trại xuân 2018 nhằm tăng sự đoàn kết của các thành viên trong lớp và đây cũng là dịp để các em thỏa sức sáng tạo, thể hiện tính tự giác của mình.
 + Thi tin học trẻ là cơ hội để các em biểu diễn những nghiên cứu, sáng tạo của mình.
 + Thi sáng tạo khoa học kĩ thuật. Đây là hoạt động giúp các em tiếp cận được những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến và bước đầu sáng chế những máy móc, thiết bị từ những vật liệu tái chế. Thông qua hoạt động này, nhà trường đã tạo điều kiện cho các em làm quen với việc nghiên cứu khoa học, tạo cho các em sự say mê, tìm tòi, kích thích học tập tốt hơn đồng thời hình thành ở các em đức tính cần, kiệm và kĩ năng tự khẳng định mình.
+ Tham quan, hướng nghiệp: Học sinh được bồi dưỡng lòng tự hào về truyền thống dân tộc, yêu thêm quê hương và có tính thần tương thân tương ái trong cuộc sống khi được tham quan thực tế trong thiên nhiên, rèn luyện tính tự lập cho các em khi đi xa nhà. Học sinh được học lý thuyết trên lớp kết hợp với thực tiễn ngoài xã hội, được tham quan cùng Thầy Cô, bạn bè qua đó thắt chặt tình cảm thầy trò, bè bạn. Đây là cơ hội để các em tìm hiểu về một số ngôi trường đại học với những ngành nghề mình yêu thích từ đó tự hình thành những định hướng tương lai cho bản thân.
 4. Kết quả đạt được
 Các em đã thực sự tiếp thu tốt việc giáo dục kĩ năng sống của giáo viên chủ nhiệm ( khi ban cán sự lớp nhận được bất kỳ thông báo cũng như kế hoạch của Đoàn trường, tự bản thân các em chọn và lên danh sách các bạn tham gia phong trào một cách tích cực, sau đó mới thông qua GVCN ý kiến và duyệt danh sách các bạn tham gia). Nhìn chung ý thức tự giác của các em rất cao. 
 Sau khi thực hiện lồng ghép giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy cũng như chủ nhiệm (học kì I) đã đạt được kết quả khả quan như sau:
 - Về học lực và hạnh kiểm
Xếp loại
Học lực
Hạnh kiểm
SL
%
SL
%
Giỏi
Tốt:
19
57.58%
33
100.00%
Khá:
13
39.39%
0
0.00%
T.bình:
1
3.03%
0
0.00%
Yếu:
0
0.00%
0
0.00%
Kém:
0
0.00%
Cộng
33
100.00%
33
100.00%
Danh hiệu học sinh Giỏi
19
57.58%
Danh hiệu học sinh Tiên tiến
13
39.39%
- Về phong trào: Tham gia tất cả các phong trào do trường đề ra đúng theo kế hoạch
- Về phong trào học tập: Đạt giải nhất
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
 Kĩ năng sống là biểu hiện của hành vi, nhân cách đồng thời là yếu tố khẳng định chất lượng giáo dục theo tiêu chuẩn mới về sự trưởng thành của con ngư

File đính kèm:

  • docGIAO DUC MOT SO KI NANG SONG CO BAN CHO HOC SINH LOP CHU NHIEM_12771066.doc
Giáo án liên quan