Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2

I. Cơ sở lý luận của sáng kiến

 Đọc là quá trình chuyển chữ viết sang lời nói có âm thanh và có ngữ điệu - ứng với hình thức đọc thành tiếng, là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn nghĩa không có âm thanh - ứng với đọc thầm (Sổ tay thuật ngữ phương pháp dạy học tiếng Nga của MR. Lô-vốp).

 Con người thật là hạnh phúc khi biết đọc. Chúng ta đã biết phần lớn những tri thức, khái niệm của đời sống và những thành tựu văn hóa, khoa học, tư tưởng, tình cảm của thế hệ trước và cả của thời đương đại được ghi lại bằng chữ viết, nếu không biết đọc thì con người khó có thể tiếp thu được nền văn minh của loài người, chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc làm chủ xã hội hiện đại. Không biết đọc con người không được hưởng thụ những thành tựu văn hoá khoa học, tư tưởng, tình cảm của nhân loại qua ngôn ngữ viết. Đặc biệt là trong thời kì bùng nổ thông tin thì đọc càng quan trọng, vì nó sẽ giúp người ta sử dụng tốt các nguồn thông tin. Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần. Từ đây, con người mới tìm hiểu đánh giá cuộc sống, nhận thức mối quan hệ tự nhiên, xã hội. Biết đọc, con người có khả năng giao tiếp được với thế giới bên trong của con người khác thông qua tác phẩm văn, thơ, bút kí. của họ. Không biết đọc, con người sẽ khó có điều kiện hưởng thụ giáo dục mà xã hội dành cho họ, khó có thể hình thành một nhân cách toàn diện. Đọc giúp các em học sinh chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ có tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc. Đọc là một kỹ năng quan trọng hàng đầu của con người. Nhờ biết đọc, con người có thể tự học, học nữa, học mãi, học suốt đời. Đó là một yêu cầu không thể thiếu được của con người trong thời đại hiện nay. Biết đọc, ngắt câu, đổi giọng cho đúng ngữ điệu vừa đảm bảo được diễn cảm, hấp dẫn người nghe, vừa đảm bảo đúng ngữ pháp, ý nghĩa thông tin của tác giả muốn truyền đạt cho người nghe hiểu, nhận thức được đúng cũng là góp phần làm trong sáng ngôn ngữ Tiếng Việt.

 

doc29 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áo viên cần cho học sinh đọc bài nhiều lần, luyện phát âm đúng, phát âm chuẩn, luyện đọc câu, đoạn, bài. Mỗi học sinh trong giờ Tập đọc phải được đọc dưới mọi hình thức từ một, hai đến ba lần. Một số giáo viên, phân bố thời gian trong tiết dạy chưa hợp lí, thời gian dành cho luyện đọc còn ít, thời gian dành cho tìm hiểu bài nhiều hơn. Một số ít giáo viên mới chuyển từ bản về trường chính chưa thực sự đầu tư, đổi mới phương pháp dạy học nhất là đối với phân môn Tập đọc, chỉ chú ý dạy đủ bước, dạy đều đều cho đến hết bài, chưa biết cách sửa lỗi cho học sinh, chưa sử dụng linh hoạt các hình thức dạy học trong khâu luyện đọc ... Cách thức tổ chức luyện đọc của một số ít giáo viên còn tẻ nhạt, chưa tạo ra những “điểm mới” trong cách luyện đọc, việc vận dụng nguyên tắc dạy học “Học mà chơi, chơi mà học” còn chưa thực sự hiệu quả. Giáo viên chưa hệ thống được lỗi sai của học sinh để tìm biện pháp sửa lỗi cho các em. Việc sửa lỗi cho học sinh chưa kiên trì, xuyên suốt tiết dạy Tập đọc, chỉ sửa lỗi cho học sinh trong lúc luyện đọc câu, mà chưa chú ý sửa lỗi khi đọc đoạn, bài, khi đọc lại hoặc khi luyện đọc thuộc lòng. 
Một số giáo viên giọng đọc còn chưa đúng mẫu, chưa diễn cảm, có giáo viên còn đọc ngọng, phát âm lệch chuẩn... vì thế chất lượng dạy Tập đọc chưa đạt như mong muốn. 
Một số ít giáo viên do đề cao quá mức yêu cầu cảm thụ văn học nên đã biến giờ Tập đọc thành giờ giảng văn, cô giảng là chính, trò chỉ nghe, dành ít thì giờ luyện đọc. Trong khi giảng nội dung hầu hết giáo viên sử dụng câu hỏi sách giáo khoa là chính, chưa biết bóc tách câu hỏi, chẻ nhỏ câu hỏi, đặt thêm câu hỏi cho phù hợp với đối tượng học sinh, nên không gây được hứng thú học tập cho học sinh. 
Các nguyên nhân trên dẫn đến một số học sinh không thích học Tập đọc, chất lượng “đọc” của học sinh chưa được cao. Vì vậy việc tìm ra biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 tôi thấy là thiết thực 
Về phía học sinh 
Trong một lớp học có rất nhiều đối tượng học sinh. Một số học sinh phát âm lệch chuẩn chữ viết ở một số âm đầu s/x; tr/ch; l/n; l/đ; ... một số vần anh/ăn; uôi/ôi, ươn/ơn... Ngắt nghỉ hơi tuỳ tiện, tốc độ đọc còn chậm, đọc rời rạc, chưa biết nhấn giọng ở những từ gợi tả, gợi cảm; chưa cảm thụ được cái hay, cái đẹp của bài văn, bài thơ. Kĩ năng đọc đúng, đọc hay của các em lớp 2 còn hạn chế, các em đọc một cách thụ động. Nhiều học sinh khá hơn cố gắng đọc hay, đọc diễn cảm song vì không có kĩ năng đọc đúng, không biết nên nhấn giọng chỗ nào, ngắt nhịp thơ ra sao, giọng đọc các câu phân loại theo kiểu câu như câu kể, câu hỏi, câu cảm... phải đọc như thế nào nên vẫn không đạt kết quả.
* Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. 
+ Giáo viên: 
- Chưa thực sự đầu tư vào tiết dạy Tập đọc, chưa biết hệ thống, phân loại đối tượng học sinh để tìm biện pháp rèn đọc cho từng nhóm đối tượng. 
- Chưa biết lựa chọn phương pháp, hình thức dạy đọc phù hợp, chưa đổi mới hình thức luyện đọc dẫn đến học sinh nhàm chán, không hứng thú học tập đọc. Giáo viên chưa kiên trì trong việc sửa lỗi cho học sinh. 
- Chưa có biện pháp rèn kỹ năng đọc phù hợp, hiệu quả cho học sinh. 
- Chưa xây dựng được thời gian biểu của tiết dạy cho hợp lí, xử lí các tình huống trong giờ dạy chưa thật linh hoạt. 
- Chưa tích cực làm và sử dụng đồ dùng dạy học, hoặc sử dụng đồ dùng dạy học chưa thật hiệu quả. 
- Một số giáo viên phát âm lệch chuẩn (ngọng n/l) nên không phát hiện ra học sinh phát âm sai để sửa lỗi cho các em. 
- Một số giáo viên mới ra trường chưa có kinh nghiệm giảng dạy, số ít giáo viên mới ở bản về chưa quen với đối tượng học sinh. 
- Giáo viên tiểu học phải dạy nhiều môn học (9 môn học) nên việc tập trung đầu tư cho phân môn Tập đọc chưa nhiều. 
+ Học sinh: 
Học sinh lớp 2, mới từ lớp 1 lên, các em còn nhỏ, hay quên, trí nhớ chưa bền. Các em chưa có tính kiên trì trong sửa lỗi. Các em trong lớp có nhiều đối tượng khác nhau, mỗi học sinh thường mắc những lỗi đọc khác nhau, một số em mắc lỗi phát âm lẫn lộn từ giao tiếp trong gia đình (cha, mẹ nói ngọng). Ở lớp 1 các bài tập đọc còn ngắn, thường là dễ nhớ, dễ thuộc, và nội dung tìm hiểu bài chỉ gồm những câu hỏi đơn giản, học sinh ít phải tư duy, thời gian dành cho luyện đọc rất nhiều. Ở lớp 2, các bài Tập đọc thường dài hơn, những bài đầu tuần thường dạy trong 2 tiết, nếu giáo viên không biết hướng dẫn luyện đọc thì các em rất chóng chán, không tận dụng được thời gian để phát huy hết khả năng đọc của mỗi học sinh. Lớp 2A là lớp đều học sinh dân tộc lớp có chất lượng đầu năm thấp, Số lượng học sinh khảo sát đầu năm môn Tiếng Việt chỉ đạt 25/41 em từ hoàn thành trở lên trong đó có 15 em hạn chế phần đọc. 
III. Các biện pháp giải quyết vấn đề
Xác định rõ nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên tôi đã tiến hành một số bước sau: 
* Bước 1: Đánh giá thực tế phân loại đối tượng học sinh 
Đánh giá định tính trong quá trình giảng dạy kỹ năng đọc của học sinh lớp 2A đầu năm. 
	Cụ thể, tôi đã đánh giá thực tế việc đọc của các em qua một đoạn văn. Giáo viên chép lên bảng đoạn văn sau.
Xuân về
Thế là mùa xuân mong ước đã đến! Đầu tiên, từ trong vườn, mùi hoa hồng, hoa huệ thơm nức. Trong không khí không còn ngửi thấy hơi nước lạnh lẽo mà đầy hương thơm và ánh sáng mặt trời. Cây hồng bì đã cởi bỏ hết những cái áo lá già đen thủi. Các cành cây đều lấm tấm màu xanh. Những cành xoan khẳng khiu đương trổ lá, lại sắp buông toả ra những tán hoa sang sáng, tim tím. Ngoài kia, rặng râm bụt cũng sắp có nụ. 
Giáo viên lần lượt gọi từng học sinh đọc bài, với 3 mức độ sau: Hoàn thành tốt, hoàn thành, chưa hoàn thành. 
Cụ thể: Hoàn thành tốt: Học sinh đọc lưu loát, biết nhấn giọng đúng chỗ, ngắt nghỉ phù hợp, bước đầu biết đọc diễn cảm. 
- Hoàn thành: Học sinh đọc to, rõ ràng, ngắt nghỉ đôi chỗ còn có thể chưa phù hợp. 
- Chưa hoàn thành: Học sinh đọc còn sai nhiều. Sau khi cho học sinh trong lớp đọc bài, có một số lỗi như sau: 
Xuân bề
Thế là mùa xuân mong ước lá lến! Lầu tên, từ trong vờn, mùi hoa hồng, hoa huệ thơm phứ. Trong không khí không còn ngử tháy hơi nớc nạnh néo mà đầy hương thơm và ánh sáng mặt trời. Cây hồng vì đã cợi bọ hết nhứng cái áo đá già len tụi. Các cành cây đều lấn tấn màu xanh. Những cành xoan khẳng khiu đương chộ lá, lại sắp buông toả ra nhứng tán hoa sang sáng, tim tím. Ngoài kia, dặng dâm bụt cúng sắp có lụ. 
Đánh giá sau khi cho học sinh đọc cụ thể như sau: 
Tổng số học sinh được đánh giá định tính
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
41
7
17%
28
70,8%
5
12,2
Đánh giá sau khảo sát cụ thể như sau: 
Qua khảo sát thực tế, tôi tiến hành lập danh sách, phân loại học sinh mắc lỗi theo nhóm như sau:
Tổng số học sinh
Đọc chậm, ê a
Đọc nhỏ
Đọc liếng thoáng
Ngọng âm đầu
Ngọng vần
Ngọng thanh
n/l
l/đ
b/v
t/th
Ươc/ơc
Ươn/ơn
iên/ên
(đọc sai âm đôi
Sắc/ngã
Hỏi/nặng
41
5/41
=12,2%
6/41
=14,7%
9/41
=21,9%
5/41
=12,2%
3/41
= 7,3%
4/41
=9,7%
6/41
=14,7%
3/41
=7,3%
Cụ thể: 
+ Về lỗi phát âm: Các em chủ yếu ngọng về âm đầu và thanh, ngọng vần ít hơn. Cụ thể: học sinh chủ yếu lẫn âm l/n: 5 em người kinh (phần nhiều ảnh hưởng do phát âm từ gia đình bố mẹ học sinh); có 2 em người dân tộc Thái phát âm ngọng v/b; đ/b; t/th (ngọng phát âm địa phương), 4 em ngọng âm đầu còn có 34 em học sinh dân tộc Mông ngọng thanh sắc/ngã; hỏi/nặng; còn 9 em ngọng vần ươn/ơn, ươc/ơc; iên/ên.
+ Về lỗi diễn đạt: Cả lớp có 2 học sinh đọc trôi chảy, mạch lạc, bước đầu có diễn cảm, 6 em đọc rõ ràng, ngắt nghỉ tương đối phù hợp, 13 em đọc được bài tuy nhiên đôi khi vẫn còn ngắt, nghỉ chưa đúng chỗ, chưa biết ngắt câu dài, vẫn ngọng âm, còn 5 em vừa đọc vừa đánh vần, đọc chậm và còn mắc cả lỗi phát âm (ngọng âm đầu và thanh), trong lúc đọc còn dừng lại để đánh vần, không đảm bảo tốc độ. Còn 3 em đọc được bài nhưng đọc liến thoắng, ngắt nghỉ không đúng chỗ, đọc ào ào cho hết bài, còn 8 em đọc nhỏ. 
Sau khi khảo sát, phân loại đối tượng tôi tiến hành lập danh sách theo dõi, tập trung các nhóm học sinh mắc lỗi để xây dựng kế hoạch bồi dưỡng riêng. Lập bảng theo dõi mức độ tiến bộ trong phát âm, những ưu khuyết điểm còn mắc phải trong từng bài, từng tuần để từng bước dứt điểm. 
Thông qua bảng thống kê giáo viên nắm được mức độ mắc lỗi của học sinh trong lớp từ đó có kế hoạch sửa lỗi cho từng nhóm học sinh trong từng tiết học, bài học, theo từng loại lỗi khác nhau. 
Tóm lại: Bước khảo sát thực tế việc đọc của học sinh nhằm tìm ra để phân loại các nhóm mắc lỗi khác nhau để tìm biện pháp khắc phục, sửa lỗi cho học sinh. Đây là bước rất quan trọng để thực hiện tốt việc “rèn kĩ năng đọc” cho học sinh. 
* Bước 2: Chuẩn bị bài trước khi lên lớp
	+ Tập đọc mẫu 
	Trước khi lên lớp, giáo viên phải nghiên cứu kỹ bài Tập đọc: Xác định chuẩn kiến thức kỹ năng của bài, nắm chắc nội dung và ý nghĩa bài Tập đọc, đặc biệt là thể loại bài Tập đọc, từ đó hình thành cách đọc, giọng đọc, cách ngắt hơi, nghỉ hơi, cách ngắt nhịp câu thơ, cách lên giọng, xuống giọng ... cho phù hợp. Đọc bài thành tiếng ít nhất hai đến ba lần để tự kiểm tra giọng đọc, cách ngắt hơi, nghỉ hơi, ... của mình đã phù hợp chưa để kịp thời điều chỉnh cho bước đọc mẫu của giờ Tập đọc. Giáo viên phải tập cho bản thân mình có giọng đọc mẫu thật chuẩn. Đọc mẫu cho các em trong giờ Tập đọc là vô cùng quan trọng nó góp phần quyết định đến chất lượng đọc của các em trong giờ Tập đọc đó. 
	Giáo viên đọc mẫu phải đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đảm bảo tốc độ và diễn cảm, vì đây chính là cái đích về kỹ năng đọc mà học sinh cần đạt được. Qua bài đọc mẫu của giáo viên còn diễn đạt được đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm trong bài tập đọc (đây chính là phương pháp trực quan tốt nhất đối với học sinh lớp 2). 
	Nếu giáo viên còn phát âm chưa chuẩn nên gạch dưới những tiếng từ mình hay mắc lỗi để khi đọc chú ý uốn nắn kịp thời tiến tới đọc chuẩn khi đọc mẫu trước học sinh. 
	+ Phân tích nội dung bài
	 Tập đọc qua hệ thống câu hỏi cuối bài Giáo viên phải trả lời được các câu hỏi vì các câu trả lời này sẽ giúp cho giáo viên xác định được mục đích, yêu cầu, nội dung và phương pháp dạy bài Tập đọc. Trong một số bài Tập đọc giáo viên có thể dùng thêm một số câu hỏi dẫn dắt trước khi vào các câu hỏi chính, có thể chia câu hỏi trong sách giáo khoa thành các câu hỏi nhỏ, sắp xếp, hệ thống lại các câu hỏi cho phù hợp (tránh những câu hỏi vụn vặt). 
 	+ Lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học - đặc biệt là lựa chọn biện pháp rèn đọc cho học sinh. 
	Tuỳ từng bài Tập đọc, giáo viên lường trước các từ khó, phát âm dễ lẫn để lựa chọn nhóm đối tượng luyện đọc nhiều hơn. Ví dụ bài tập đọc có nhiều âm đầu khó, hay có vần dễ lẫn để chọn nhóm học sinh hay mắc lỗi đó luyện đọc kĩ hơn. Lựa chọn hình thức luyện đọc ở phần đọc đoạn, bài hay phần đọc lại sau tìm hiểu nội dung, có thể chọn các hình thức dạy học như: Trò chơi, thi đọc tiếp sức, thi đọc đối đáp... để học sinh không nhàm chán. Cách luyện đọc nhóm cũng cần linh hoạt, không nhất nhất cứ nhóm đôi. Bài có 3 đoạn chúng ta có thể luyện đọc nhóm ba, bốn đoạn thì luyện đọc nhóm 4. Đến phần thi đọc nhóm trước lớp cũng cần thay đổi linh hoạt, có thể thi chọn mỗi nhóm một em thi đọc, cũng có thể thi đọc đồng thanh cả nhóm ... Tóm lại là giáo viên phải linh hoạt để tiết học sinh động. 
+ Bước soạn bài 
- Xác định rõ mục đích, yêu cầu của bài Tập đọc bám sát Chuẩn kiến thức
kỹ năng cơ bản. 
- Lập thời gian biểu cụ thể cho từng phần của bài Tập đọc (chú ý thời gian
dành cho luyện đọc của từng bài). Phần luyện đọc phải dành 20 - 25 phút/tiết. 
Ví dụ: Phần đọc mẫu: khoảng 2 phút 
Luyện đọc từng câu (học sinh đọc nối tiếp mỗi em 1 câu) (từ 5-7 phút): phần này tuỳ bài dài hay ngắn, tuỳ số lượng học sinh phải sửa lỗi nhiều hay ít để phân bố thời gian cho hợp lí. Thường thí dành nhiều thời gian hơn ở kỳ I và chú ý sửa lỗi phát âm cho học sinh. Luyện đọc từng đoạn trước lớp (từ 5-7 phút): rèn lỗi ngắt, nghỉ câu dài, cách đọc câu hỏi, câu cảm, ... 
	Đọc đoạn trong nhóm (từ 2-3 phút): học sinh tự sửa lỗi cho nhau. Thi đọc nhóm trước lớp (5-7) phút: Có thể tổ chức trò chơi luyện đọc: đọc thi cá nhân các nhóm, thi đồng thanh nhóm, thi đọc tiếp sức đoạn trong nhóm, đọc “truyền điện”... 
	- Lựa chọn nhóm đối tượng hay mắc lỗi trong từng bài để dành thời gian sửa lỗi cho nhóm này nhiều hơn. 
	- Lựa chọn hình thức luyện đọc cho bài, tránh trùng lặp gây nhàm chán cho học sinh. 
	+ Bước chuẩn bị đồ dùng dạy học 
	Đây là bước quan trọng phục vụ cho giờ dạy, các tranh ảnh, sưu tầm các câu thơ, ca dao, tục ngữ để hỗ trợ thêm bài giảng thêm phong phú, phải lựa chọn, sắp xếp, đưa ra lúc nào cho phù hợp để phục vụ cho mục đích tiết dạy, tận dụng tranh minh họa trong sách giáo khoa và đồ dùng dạy học một cách thiết thực có hiệu quả nhất. Khi dạy trình chiếu, có thể lựa chọn tranh ảnh phục vụ cho việc giải nghĩa từ, giảng nội dung, cảm thụ bài văn, bài thơ... hoặc cho học sinh nghe giọng đọc diễn cảm của bài Tập đọc. 
	Giảng bài.
	Giáo viên cần dạy đúng quy trình của bài Tập đọc, đảm bảo về mặt thời gian và khối lượng kiến thức cần truyền tải đến học sinh. 
	Chú ý trong khi giảng bài việc khen, động viên học sinh phải đúng lúc, kịp thời, không khen nhiều quá, hay ít khen quá làm tiết học buồn tẻ, không nên chê học sinh mà chọn lời nói phù hợp để khuyến khích học sinh, các em rất hiếu động vì thế mỗi lời khen, động viên của giáo viên đều phải đúng lúc, kịp thời. 
 	Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà. Phải có sự chuẩn bị bài trước ở nhà. Học sinh lớp 2 chưa có thói quen đọc trước bài ở nhà. Ngay từ đầu năm học tôi đã hướng dẫn học sinh cách chuẩn bị một bài Tập đọc, để hình thành phương pháp học bộ môn này. 
	Bước1: Đọc thầm một lần bài Tập đọc để làm quen mặt chữ, để cảm nhận ban đầu về bài văn. Nếu học sinh đọc ngọng thì dùng bút chì gạch chân những tiếng bản thân hay đọc ngọng để khi đọc chú ý để sửa. 
	Bước 2: Đọc thành tiếng hai lần, đầu tiên đọc đúng, rõ ràng từng từ, từng câu (biết ngắt hơi ở dấu phẩy, nghỉ hơi ở dấu chấm) để sau đó tiến tới đọc diễn cảm, đọc hay. 
	Bước 3: Đọc kỹ phần chú giải (có thể hỏi cha mẹ, anh chị những từ nào chưa hiểu trong bài Tập đọc). 
	Bước 4: Tập trả lời câu hỏi dưới bài Tập đọc. Trước khi trả lời nên đọc toàn bộ câu hỏi một lần, suy nghĩ động não trả lời từng câu sao cho gọn, đủ ý (Có thể viết vào vở chuẩn bị bài). 
	Bước 5: Đọc thành tiếng lần cuối sao cho đúng, giọng đọc phù hợp với nội dung của bài Tập đọc. 
	 Kiểm tra đánh giá thường xuyên. 
Sau mỗi bài Tập đọc, giáo viên ra bài tập và hướng dẫn học sinh học ở nhà theo yêu cầu, giáo viên phải có kế hoạch kiểm tra việc học ở nhà đối với các em. 
	Sau mỗi tiết, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi kì giáo viên cần đánh giá kiểm tra trình độ của học sinh rồi ghi lại vào bảng theo dõi, từ đó giáo viên điều chỉnh lại phương pháp giảng dạy hoặc giúp học sinh điều chỉnh lại cách học sao cho việc dạy và học đạt hiệu quả cao. 
	Mặt khác xuất phát từ đặc điểm của lứa tuổi học sinh tiểu học: rất thích được cô giáo khen, thích gần gũi, vui vẻ cùng cô giáo, luôn cố gắng làm nhiều việc tốt để được cô giáo chú ý, khen ngợi nên việc động viên, khen ngợi kịp thời có tác dụng khuyến khích học sinh tích cực, hứng thú học tập hơn. Giáo viên cần hạn chế việc chê bai học sinh một cách lộ liễu trước cả lớp. Đối với những em chậm tiến bộ nên nhẹ nhàng nhắc nhở, tìm hiểu nguyên nhân để tìm cách khắc phục chứ không phê bình gay gắt, không xúc phạm đến học sinh, không để học sinh chán nản, không thích học Tập đọc. 
	 Dự giờ đồng nghiệp. 
	Trong trường có rất nhiều giáo viên có kinh nghiệm dạy Tập đọc, những giáo viên mới về trường nên tích cực đi dự giờ, học hỏi đồng nghiệp. Sau mỗi tiết dự giờ rút kinh nghiệm với giáo viên trực tiếp giảng dạy, bổ sung kiến thức, phương pháp cho bản thân mình. Phần nào chưa rõ, chưa hiểu có thể trực tiếp hỏi giáo viên giảng dạy để hiểu thấu đáo hơn. 
	Tóm lại: Giáo viên phải chuẩn bị bài kĩ lưỡng, chi tiết, dự phòng được một số tình huống sư phạm khi giảng dạy và hướng giải quyết, xây dựng được kế hoạch dạy học phù hợp với bài tập đọc, phù hợp với đối tượng học sinh của lớp, lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp. Tích cực tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
	* Bước 3: Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2. 
	Biện pháp 1: Luyện đọc đúng (dùng cho nhóm lỗi phát âm ngọng)	
	- Học sinh đọc đúng tức là đọc một cách chính xác, không có lỗi, nghĩa là không đọc thừa, thiếu tiếng, không đọc theo cách phát âm địa phương, lệch chuẩn, đọc đúng chính âm. 
	- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh có tâm thế để đọc: Tư thế đứng đọc ngay ngắn, hít sâu, thở ra chậm để lấy hơi. 
	+ Luyện cho học sinh biết đọc đúng chính âm: 
	- Rèn đọc đúng là rèn cho học sinh thể hiện chính xác âm vị Tiếng Việt. 
	- Đọc đúng các phụ âm đầu: lạnh lẽo chứ không phải nạnh nẽo; thơm nức chứ không phải thơm lức; lấm tấm, đen thủi, rì rào không đọc thành đấm tấm; len tủi; đì đào 
	- Đọc đúng vần: phân việt và đọc đúng các vần có âm đôi ươ, uô, iê. Ví dụ: vườn, nước, đầu tiên... chứ không đọc là vờn, nơc, lầu tên, 
	- Đọc đúng thanh: phân biệt giữa thanh sắc với thanh ngã; thanh nặng với thanh hỏi. Ví dụ: Những ≠ nhứng; đỏ ≠ đọ, cởi bỏ ≠ cợi bọ 
	Thực hiện: Trước tiên giáo viên cần luyện cho học sinh nói, đọc đúng chính âm càng sớm càng tốt, tiếp đó chúng ta cần nắm các biện pháp chữa lỗi phát âm bao gồm: 
	+ Chữa lỗi phát âm theo mẫu: Rèn cho học sinh kỹ năng nghe. Học sinh phát âm sai, giáo viên phát âm chuẩn, yêu cầu học sinh nghe và đọc lại chính xác theo mẫu. Giáo viên cho học sinh quan sát khẩu hình miệng cách bật âm thanh, rồi học sinh làm theo mẫu. Giáo viên có thể để học sinh có giọng đọc chuẩn đọc mẫu để học học phát âm sai đọc lại theo, cho học sinh gạch chân tiếng có âm mình hay lẫn để luyện phát âm riêng những tiếng đó. 
	+ Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp cấu âm: cho học sinh phân tích cấu tạo tiếng: âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối từ đó đánh vần đủ để đọc đúng, không bỏ âm cuối hoặc âm đệm, hoặc lẫn các âm cuối (có thể cho học sinh vẽ lại mô hình cấu tạo vần, đưa vần vào mô hình đã học ở lớp 1) 
	+ Chữa lỗi bằng âm trung gian, chữa lỗi phát âm bằng cách tìm tiếng, từ có chứa âm dễ lẫn: ví dụ: “no” khác với “ lo” bằng cách tìm từ có tiếng “no”, “lo”: ăn no, no nê, .. lo lắng, lo sợ, “đỏ” khác với “đọ”: màu đỏ, hoa đỏ ... khác với đọ sức, so đọ ..., cũng có thể giáo viên dùng tranh ảnh (hoặc hình ảnh khi dạy giáo án điện tử) để học sinh phân biệt, ví dụ phân biệt vần ơn/ươn: hình ảnh vườn rau, vườn cây với hình ảnh đàn bướm vờn hoa... 
	+ Chữa lỗi theo nhóm: Khi học đến bài tập đọc nào có nhóm học sinh mắc lỗi nhiều trong bài thì giáo viên phải tập trung vào nhóm học sinh đó để sửa lỗi ngay, cố gắng, kiên trì với từng học sinh, có thể cho học sinh gạch chân chữ mình hay đọc sai để khi đọc đến đó nhớ đọc cho đúng. Giáo viên cần chú ý kiên trì chữa lỗi phát âm sai cho học sinh trong lớp ở tất cả trong các tiết học khác, trong khi giao tiếp hàng ngày.
	Tóm lại: Để hướng dẫn học sinh đọc đúng giáo viên phải luyện cách phát âm đúng. Giáo viên phải kiên trì, liên tục có hệ thống. Nhiều học sinh phát âm ngọng ngại không muốn đọc sợ các bạn cười, giáo viên phải giải toả tâm lí, phân tích để các bạn cùng giúp đỡ, giáo viên nên lựa chọn hình thức sửa lỗi trong đọc nhóm đôi, học sinh tự phát hiện tự sửa lỗi cho nhau. 
	Biện pháp 2: Luyện đọc nhanh (dùng cho nhóm học sinh đọc nhỏ, đọc chậm, đọc ê, a, nhóm học sinh đọc liến thoắng)
	Theo thực hiện Chuẩn kiến thức kĩ năng tốc độ đọc cần đạt ở mỗi học kì khác nhau: 
	Giữa học kì I: khoảng 35 tiếng / phút. 
	Cuối học kì I: khoảng 40 tiếng / phút. 
	Giữa học kì II: khoảng 45 tiếng / phút. 
	Cuối học kì II: khoảng 50 tiếng / phút. 
	Đọc nhanh còn gọi là đọc lưu loát, đọc trôi chảy, đọc nhanh là nói đến mức độ đọc về mặt tốc độ. Vấn đề đọc nhanh chỉ xảy ra sau khi đọc đúng. Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn, không đọc ê a, ngắc ngứ vừa đọc vừa đánh vần. Song đọc nhanh không phải là đọc ào ào, liến thoắng, không thể hiện được nội dung, tình cảm của bài Tập đọc. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời. Khi đọc thầm tốc độ sẽ nhanh hơn.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_ren_ki_nang_doc_cho_hoc_sinh.doc