Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học các môn khoa học ở trường Tiểu học và Trung học cơ sở
Khi tiến hành thực hiện thí nghiệm, giáo viên nêu rõ yêu cầu và
mục đích thí nghiệm hoặc yêu cầu học sinh cho biết mục đích thí
nghiệm chuẩn bị tiến hành để làm gì? Lúc này giáo viên mới phát các
dụng cụ và vật liệu thí nghiệm tương ứng với hoạt đông. Sở dĩ như
vậy là vì, nếu để các vật dụng thí nghiệm sẵn trên bàn học sinh sẽ
nghịch các đồ vật mà không chú ý đến các đồ vật trong lớp; hoặc học
sinh tự ý thực hiện thí nghiệm trước khi lệnh thực hiện của giáo viên
ban ra; hoặc học sinh sẽ dựa vào đó để đoán các thí nghiệm cần phải
làm (trường hợp này mặc dù học sinh có thể đề xuất thí nghiệm đúng
nhưng ý đồ dạy học của giáo viên không đạt).
Tiến hành thí nghiệm tương ứng với môđun kiến thức. Làm lần
lượt các thí nghiệm nếu có nhiều thí nghiệm. Mỗi thí nghiệm thực
hiện xong nên dừng lại để học sinh rút ra kết luận (tìm thấy câu trả lời
cho các vấn đề đặt ra tương ứng).
Giáo viên lưu ý học sinh ghi chép vật liệu thí nghiệm, cách bố
trí và thực hiện thí nghiệm (mô tả bằng lời hay vẽ sơ đồ), ghi chú lại
kết quả thực hiện thí nghiệm, kết luận sau thí nghiệm vào vở thí
nghiệm. Phần ghi chép này giáo viên để học sinh ghi chép tự do,
không nên gò bó và có khuôn mẫu quy định, nhất là đối với những lớp
mới làm quen với phương pháp BTNB. Đối với các thí nghiệm phức
tạp và nếu có điều kiện, giáo viên nên thiết kế một mẫu sẵn để học
sinh điền kết quả thí nghiệm, vật liệu thí nghiệm. Ví dụ như các thí
nghiệm phải ghi số liệu theo thời gian, lặp lại thí nghiệm ở các điều
kiện nhiệt độ khác nhau
ài học có làm thí nghiệm thì giáo viên cần có chỗ để các vật dụng dự kiến làm thí nghiệm cho học sinh. Không nên để sẵn các vật dụng thí nghiệm lên bàn của học sinh trước khi dạy học vì nhiều học sinh quá hiếu động, không chịu nghe lời dặn của giáo viên, có thể sẽ mất tập trung vì mải nghịch các vật dụng trên bàn. Một lý do nữa đó là sẽ làm lộ ý đồ dạy học của giáo viên khi giáo viên muốn học sinh tự đề xuất thí nghiệm nghiên cứu. Cũng với các lý do nói trên mà giáo viên nên thu hồi các đồ dùng dạy học không cần thiết (sau khi đã sử dụng xong cho mục đích dạy học và chuyển nội dung dạy học); - Mỗi lớp học nên có một tủ đựng đồ dùng dạy học cố định (kính lúp, tranh ảnh, mô hình, cân, bơm tay, kéo cắt giấy). Nếu có điều kiện để thực hiện gợi ý này, giáo viên sẽ không phải vất vả di chuyển đồ dùng dạy học mỗi khi thực hiện tiết dạy. Nếu không làm được như gợi ý trên, giáo viên có thể để các đồ dùng dạy học ở phòng bộ môn hoặc phòng thiết bị. Giáo viên có thể nhờ học sinh giúp mình để di chuyển các đồ dùng dạy học trong trường hợp lớp đông và đồ dùng dạy học nhiều. Cần nhắc nhở học sinh cẩn thận khi di chuyển đồ dùng dạy học, chỉ nên cho học sinh mang các đồ vật nhẹ, không dễ vỡ, 59 hư hỏng vì độ tuổi của các em chưa đủ để điều khiển tốt các hoạt động hành vi của mình; - Một số trường hợp có phòng học bộ môn hoặc phòng học đặc biệt thì nên bố trí các vật dụng theo yêu cầu trong phòng này để tiện lợi cho việc dạy học của giáo viên và học sinh; - Chú ý sắp xếp bàn ghế không nên gập ghềnh vì gây khó khăn cho học sinh khi làm một số thí nghiệm cần sự cân bằng hoặc gây khó khăn khi viết. 3.1.2. Không khí làm việc trong lớp học Phương pháp BTNB khuyến khích học sinh xây dựng kiến thức thông qua làm việc chung, tiến hành thử nghiệm, chia sẻ ý tưởng, khác với một số phương pháp dạy học giáo viên luôn bận tâm với việc học sinh cần phải đưa ra câu trả lời đúng. Để có một bầu không khí học tập sôi nổi trong lớp, giáo viên cần xây dựng không khí làm việc và mối quan hệ giữa các học sinh dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và đối xử công bằng, bình đẳng giữa các học sinh trong lớp. Tránh tuyệt đối luôn khen ngợi quá mức một vài học sinh nào đó hoặc để cho các học sinh khá, giỏi trong lớp luôn làm thay công việc của cả nhóm, trả lời tất cả các câu hỏi nêu ra mà không tạo cơ hội làm việc cho các học sinh khác. Giáo viên cần phải chú ý và bao quát lớp học, khuyến khích các học sinh có ý tưởng tốt nhưng rụt rè không dám trình bày. Một không khí làm việc tốt trong dạy học theo phương pháp BTNB có hiệu quả là giáo viên tạo được sự thoải mái cho tất cả các học sinh, việc học không trở nên là một điều gì đó quá căng thẳng, các học sinh có thể tham gia và ham thích các hoạt động dạy học được giáo viên tổ chức trong lớp như: thực hiện thí nghiệm, suy nghĩ, thảo luận, trao đổi, trình bày bằng lời nói hay viết 3.2. Giúp học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu Biểu tượng ban đầu của học sinh thường là quan niệm hay khái quát chung chung về sự vật hiện tượng, có thể sai hoặc chưa thực sự 60 chính xác về mặt khoa học. Vì là lần đầu tiên được hỏi đến nên học sinh ngại nói, sợ sai và sợ bị chê cười. Do đó giáo viên cần khuyến khích học sinh trình bày ý kiến của mình. Cần biết chấp nhận và tôn trọng những quan điểm sai của học sinh khi trình bày biểu tượng ban đầu. Biểu tượng ban đầu có thể trình bày bằng lời nói hay viết, vẽ ra giấy. Biểu tượng ban đầu là quan niệm cá nhân nên giáo viên phải đề nghị học sinh làm việc cá nhân để trình bày biểu tượng ban đầu. Nếu một vài học sinh nào đó nêu ý kiến đúng, giáo viên không nên vội vàng khen ngợi hoặc có những biểu hiện chứng tỏ ý kiến đó là đúng vì nếu làm như vậy giáo viên đã vô tình làm ức chế các học sinh khác tiếp tục muốn trình bày biểu tượng ban đầu. Biểu tượng ban đầu của học sinh càng đa dạng, phong phú, càng sai lệnh với kiến thức đúng thì tiết học càng sôi nổi, thú vị, gây hứng thú cho học sinh và ý đồ dạy học của giáo viên càng dễ thực hiện hơn. Khi học sinh làm việc cá nhân để đưa ra biểu tượng ban đầu bằng cách viết hay vẽ ra giấy thì giáo viên nên tranh thủ đi một vòng quan sát và chọn nhanh những biểu tượng ban đầu không chính xác, sai lệnh lớn với kiến thức khoa học. Nên chọn nhiều biểu tượng ban đầu khác nhau để đối chiếu, so sánh ở bước tiếp theo của tiến trình phương pháp. Làm tương tự khi học sinh nêu biểu tượng ban đầu bằng lời nói. Giáo viên tranh thủ ghi chú những ý kiến khác nhau lên bảng. Những ý kiến tương đồng nhau thì chỉ nên ghi lên bảng một ý kiến đại diện vì nếu ghi hết sẽ rất mất thời gian và ghi nhiều sẽ gây khó khăn việc theo dõi các ý kiến khác nhau của giáo viên cũng như của học sinh. Sau khi có các biểu tượng ban đầu khác nhau, phù hợp với ý đồ dạy học, giáo viên giúp học sinh phân tích những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa các ý kiến, từ đó hướng dẫn cho học sinh đặt câu hỏi cho những sự khác nhau đó. 3.3. Kỹ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh Dạy học theo phương pháp BTNB chú trọng nhiều đến hoạt động thảo luận của học sinh vì như đã nói ở trên hoạt động tìm tòi - 61 nghiên cứu để xây dựng kiến thức mới của học sinh là kết quả của hoạt động hợp tác. Trong quá trình thảo luận, các học sinh được kết nối với nhau bằng chủ đề thảo luận và trao đổi xoay quanh chủ đề đó. Học sinh cần được khuyến khích trình bày ý tưởng, ý kiến cá nhân của mình trước các học sinh khác, từ đó rèn luyện cho học sinh khả năng biểu đạt, đồng thời thông qua đó có thể giúp các học sinh trong lớp đối chiếu, so sánh với suy nghĩ, ý kiến của mình. Những ý kiến trái ngược quan điểm luôn là sự kích thích mạnh mẽ cho sự thảo luận sôi nổi của lớp học. Thảo luận được thực hiện ở nhiều thời điểm trong dạy học bằng phương pháp BTNB, có thể là thảo luận để bộc lộ biểu tượng ban đầu của học sinh, có thể là thảo luận để đề xuất câu hỏi, đề xuất thí nghiệm hay cũng có thể để rút ra kết luận sau một thí nghiệm hay rút ra kết luận kiến thức cho bài học. Có hai hình thức thảo luận trong dạy học theo phương pháp BTNB: thảo luận nhóm nhỏ (trong nhóm làm việc) và thảo luận nhóm lớn (toàn bộ lớp học). Thảo luận nhóm nhỏ tạo điều kiện cho các học sinh đều có cơ hội trình bày ý tưởng của mình. Tuy nhiên, thảo luận nhóm nhỏ lại không yêu cầu cao đối với học sinh trong việc trình bày. Trong mức độ thảo luận này, các học sinh có thể tự do trình bày ý kiến với các thành viên của nhóm. Học sinh mạnh dạn hơn vì ý kiến được trình bày trong một cộng đồng nhỏ. Thảo luận theo nhóm lớn (toàn bộ lớp học) có thể được tổ chức sau khi thực hiện thảo luận theo nhóm nhỏ, các nhóm cử đại diện nhóm trình bày hoặc được tổ chức sau khi cho học sinh làm việc cá nhân (đối với những câu hỏi ngắn hoặc những công việc không cần thiết phải thực hiện hoạt động nhóm nhỏ trước đó). Cần phân biệt rõ thảo luận theo truyền thống trong một số phương pháp dạy học và thảo luận trong phương pháp BTNB. Thảo luận truyền thống được thực hiện bằng cách giáo viên đặt câu hỏi, lựa chọn một học sinh trả lời, sau đó nhận xét đúng hay sai trước khi chuyển sang một câu hỏi mới hoặc chuyển sang một học sinh khác 62 cũng với câu hỏi đó. Thảo luận trong phương pháp BTNB hoàn toàn khác biệt vì được thực hiện bằng sự tương tác giữa các học sinh với nhau, có nghĩa là phần trả lời của học sinh sau bổ sung cho học sinh trước, hoặc đặt câu hỏi đối với ý kiến trước; hoặc trình bày một quan điểm mới; hoặc đưa ra tranh cãi ý kiến của nhóm mình. Cần thiết phải dành thời gian để rèn luyện các kỹ năng này của học sinh vì thảo luận theo hình thức này giúp rèn luyện ngôn ngữ nói cho học sinh rất hiệu quả. Để điều khiển tốt hoạt động thảo luận của học sinh trong lớp học, ngoài việc tổ chức dạy học thoải mái, không gò bó, tạo một không khí làm việc tốt cho học sinh, giáo viên cần chú ý đến một số gợi ý sau để thực hiện điều khiển hoạt động của lớp học được thành công: - Thực hiện tốt công tác tổ chức nhóm và thực hiện hoạt động nhóm cho học sinh. - Khi thực hiện lệnh thảo luận nhóm, giáo viên cần chỉ rõ việc thành lập nhóm làm việc (nhóm nhiều người hay nhóm hai người), nội dung thảo luận là gì, mục đích của thảo luận. Lệnh yêu cầu của giáo viên càng rõ ràng và chi tiết thì học sinh càng hiểu rõ và thực hiện đúng yêu cầu. Không nên đưa ra các lệnh chung chung như "Bây giờ các em thảo luận theo nhóm đi" - Khi học sinh thảo luận, cần để không khí lớp học sôi nổi, tất nhiên không có nghĩa là ồn ào và lộn xộn. Nhắc nhở học sinh trao đổi, thảo luận vừa nghe trong nhóm (đối với thảo luận nhóm nhỏ). - Trong một số trường hợp, vấn đề thảo luận được thực hiện với tốc độ nhanh bởi có nhiều ý kiến của các học sinh khá, giỏi, giáo viên nên làm chậm tốc độ thảo luận lại để các học sinh có năng lực yếu hơn có thể tham gia. Tất nhiên việc làm chậm lại tùy thuộc vào thời gian của tiết học. - Giáo viên nên để một thời gian ngắn (5-10 phút) cho học sinh suy nghĩ trước khi trả lời để học sinh có thời gian chuẩn bị tốt các ý tưởng, lập luận, câu chữ. Khoảng thời gian này có thể giúp học sinh 63 xoáy sâu thêm suy nghĩ về phần thảo luận hoặc đưa ra các ý tưởng mới. - Nếu quan sát thấy một học sinh nào đó còn rụt rè chưa muốn nêu ý kiến, mặc dù giáo viên cảm nhận được em này đang muốn nói, giáo viên cần khuyến khích thậm chí chỉ định để học sinh này mạnh dạn phát biểu ý kiến của mình. Giáo viên cũng nên phân tích cho học sinh hiểu là cần phải nêu ý kiến cá nhân của mình để người khác được biết, thông qua đó mọi người có thể so sánh với ý kiến của mình để cùng tranh luận xây dựng kiến thức. Một số gợi ý giúp cho giáo viên phát hiện học sinh biết hoặc có ý kiến nhưng rụt rè không muốn phát biểu là: học sinh đang nghe người khác trình bày tỏ vẻ không đồng tình rồi im lặng, hoặc quay sang người bên cạnh bàn luận về ý kiến của người đang nói, hoặc đưa tay xin phát biểu mà không dám đưa cao để giáo viên thấy (những nhận biết này tùy theo kinh nghiệm của giáo viên trong quá trình dạy học). Muốn làm được điều này bắt buộc giáo viên phải quan sát tinh tế, bao quát lớp. - Giáo viên tuyệt đối không được nhận xét ngay là ý kiến của nhóm này đúng hay ý kiến của nhóm khác sai. Nên quan sát nhanh và chọn nhóm có ý kiến không chính xác nhất cho trình bày trước để gây mâu thuẫn, kích thích các nhóm khác có ý kiến chính xác hơn phát biểu bổ sung. Để tránh mất thời gian khi các nhóm có ý kiến bổ sung lặp lại ý kiến nhóm trước, giáo viên yêu cầu các nhóm tiếp theo chỉ bổ sung ý kiến khác biệt hoặc bổ sung thêm những ý còn thiếu, làm rõ những ý chưa rõ ràng. Công việc này được thực hiện tương tự đối với thảo luận chung cả lớp với từng ý kiến cá nhân mà không phải ý kiến chung của cả nhóm. - Khi học sinh trình bày ý kiến chưa đúng, giáo viên không nên chê bai hoặc nhận xét tiêu cực để tránh sự rụt rè, xấu hổ của học sinh. Những nhận xét tiêu cực không đúng thời điểm và nhất là khi học sinh trình bày trước tập thể lớp sẽ phản tác dụng giáo dục, gây bất lợi cho quá trình dạy học, vì sau đó học sinh ngại không chịu phát biểu hoặc phát biểu miễn cưỡng khi được yêu cầu, gây không khí nặng nề cho lớp học. Như đã nói ở trên, ý đồ dạy học theo phương pháp BTNB sẽ thành công khi có nhiều ý kiến trái ngược, không thống nhất để từ đó 64 giáo viên dễ kích thích học sinh suy nghĩ, sáng tạo, đề xuất câu hỏi, thí nghiệm để kiểm chứng. Câu trả lời không do giáo viên đưa ra hay nhận xét đúng hay sai mà được xuất phát khách quan qua các thí nghiệm nghiên cứu. Ví dụ: Khi úp cốc thuỷ tinh lên ngọn nến đang cháy, có học sinh cho rằng nến vẫn tiếp tục cháy bình thường, có học sinh nói ngọn nến sẽ tắt ngay lập tức, ý kiến khác lại cho rằng ngọn nến tiếp tục cháy một thời gian ngắn rồi tắt. Lúc đó giáo viên không nên nhận xét ngay học sinh nào có ý kiến đúng mà yêu cầu các em làm thí nghiệm. Khi thực hiện thí nghiệm, chính học sinh sẽ rút ra kết luận và đối chiếu với ý kiến ban đầu của mình để nhận thấy mình đúng hay sai. - Khi một học sinh có ý kiến ngây ngô, gây cười cho cả lớp hoặc một bộ phận học sinh, giáo viên nên chấn chỉnh mà phân tích cho học sinh thấy rằng cần phải tôn trọng ý kiến của người khác. Việc chấn chỉnh này nên thựa hiện một cách nhẹ nhàng ví dụ như: "Các em không nên cười ý kiến của bạn, cần tôn trọng lắng nghe ý kiến của người khác. Mà hiện tại chúng ta cũng đã biết các ý kiến được trình bày là đúng hay sai đâu? Vậy em A có ý kiến gì khác về vấn đề này?" - Khi trả lời hoặc nêu ý kiến cá nhân, đa số học sinh có thói quen nhìn vào giáo viên và hướng phần trả lời của mình vào giáo viên. Giáo viên chú ý nên nhắc nhở nhẹ nhàng để học sinh biết là mình đang thảo luận với các bạn trong lớp chứ không phải đang thảo luận với giáo viên. Một số câu nhắc nhở mà giáo viên có thể sử dụng như: "B à, em đang thảo luận với bạn A chứ không phải với Cô (Thầy)"; "Bạn C đang muốn đặt câu hỏi cho em đấy!"; "D, em nghĩ gì về ý kiến của bạn E"; "H, em có bổ sung gì thêm cho ý kiến của bạn K không?" - Như đã nói ở trên, vai trò của giáo viên trong phương pháp BTNB, cũng giống như đối với các phương pháp dạy học tích cực khác, đó là hướng dẫn. Người giáo viên không phải là trung tâm của quá trình dạy học, chỉ nói và đặt câu hỏi mà ngược lại, giáo viên nên nói ít cũng như hạn chế đưa ra những câu trả lời chuẩn xác cho học sinh. Điều quan trọng ở đây là giáo viên hướng dẫn cho học sinh thảo 65 luận, giúp các em tìm thấy sự thống nhất ý kiến và khuyến khích học sinh thảo luận tích cực. - Khi học sinh bế tắc trong thảo luận, giáo viên có thể gợi ý thêm bằng các câu hỏi gợi ý hoặc những câu khẳng định mang tính chất dẫn dắt để học sinh chú ý đến những dữ liệu, thông tin, đặc điểm liên quan đến việc tìm ra câu trả lời. Ví dụ: "Chúng ta hãy nhìn vào những số liệu này"; "Các em để ý ở"; "Các em hãy thử" - Cho phép học sinh thảo luận tự do, tuy nhiên giáo viên cần hướng dẫn học sinh tới các kết luận khoa học chính xác của bài học. - Trong quá trình thảo luận mở theo tinh thần phương pháp BTNB, học sinh có thể sẽ đặt ra các câu hỏi khó, vượt ngoài tầm kiến thức trong chương trình hoặc những câu hỏi mà với những thí nghiệm thực hiện không thể tìm ra câu trả lời hay chứng minh; thậm chí đôi khi giáo viên gặp những câu hỏi khó vượt khả năng kiến thức của mình để trả lời cho học sinh. Cách giải quyết khi điều khiển thảo luận là giáo viên nên ghi lại những câu hỏi trên bảng, có thể sắp xếp theo một tiêu chí nào đó tùy theo mục đích dạy học hoặc phân thành hai nhóm: nhóm câu hỏi có thể trả lời qua việc thực hiện thí nghiệm, tìm tòi - nghiên cứu của học sinh và nhóm câu hỏi không thể tìm thấy câu trả lời qua các thí nghiệm, học sinh sẽ tìm được câu trả lời từ giáo viên, từ các nhà khoa học, từ sách báo, tài liệu hoặc từ Internet. Đối với những câu hỏi vượt ngoài tầm kiến thức của chương trình, giáo viên nên giải thích với học sinh "Câu hỏi này rất thú vị nhưng ở chương trình năm nay chúng ta chưa học, chúng ta sẽ tìm hiểu nó vào năm lớp"; "Câu hỏi này rất thông minh nhưng các thí nghiệm đơn giản trong lớp học này chúng ta không thể làm thí nghiệm để chứng minh nó được, sau này khi học lên những bậc học cao hơn, có điều kiện các em sẽ được tìm hiểu thêm" Khi giáo viên gặp câu hỏi khó, vượt ngoài sự hiểu biết của mình, không thể trả lời ngay cho học sinh thì nên nói nhẹ nhàng như: "Câu hỏi này rất hay, Cô (Thầy) cũng chưa biết phải trả lời thế nào nhưng chúng ta sẽ cố gắng cùng nhau tìm hiểu"; "Đây là câu hỏi khó, trong thời gian ở lớp, chúng ta dành để tập trung giải quyết các vấn đề 66 đơn giản trước. Vấn đề này cô (thầy) sẽ tìm hiểu và chúng ta sẽ trở lại với nó trong những tiết học sau" Sau khi thông báo như vậy, giáo viên phải ghi chú lại để tìm hiểu và trả lời cho một học sinh ở một dịp khác. Tuyệt đối không nên nói cho qua chuyện và quên lời hứa vì làm như vậy học sinh sẽ mất lòng tin ở giáo viên, gây tác dụng không tốt trong giáo dục. 3.4. Kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp BTNB Hoạt động nhóm giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc hợp tác với nhau giữa các cá nhân. Muốn tổ chức tốt hoạt động nhóm cần tập cho học sinh làm quen dần dần qua nhiều tiết học, nhiều môn học. Khi học sinh đã quen với kiểu hoạt động này thì việc thực hiện hoạt động nhóm của giáo viên sẽ thuận lợi hơn. Kỹ thuật hoạt động nhóm được thực hiện ở nhiều phương pháp dạy học khác, không phải một đặc trưng của phương pháp BTNB. Tuy nhiên trong việc dạy học theo phương pháp BTNB, hoạt động nhóm được chú trọng nhiều và thông qua đó giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc khoa học, rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh mà chúng ta sẽ phân tích kỹ hơn trong phần nói và rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cho học sinh. Mỗi nhóm không được quá nhiều học sinh vì khi số lượng đông sẽ có một số học sinh không có cơ hội làm việc nếu các học sinh này rụt rè hoặc một số học sinh sẽ không chịu làm việc do chây lười. Nhóm làm việc lý tưởng là từ 4 đến 6 học sinh. Trong một số trường hợp giáo viên có thể thực hiện nhóm làm việc hai học sinh khi không cần phải thảo luận nhiều hoặc những hoạt động chỉ cần hai người là đủ. Ví dụ: cho từng cặp hai học sinh làm việc theo nhóm 2 người co duỗi tay và sờ nắn vào cánh tay lẫn nhau để cảm nhận điều gì đang xảy ra trong cánh tay cử động. Mỗi nhóm học sinh được tổ chức gồm một nhóm trưởng và một thư kí để ghi chép chung các phần thảo luận của nhóm hay phần trình bày ra giấy (viết lên áp-phích) của nhóm. Nhóm trưởng sẽ là người đại diện cho nhóm trình bày trước lớp các ý kiến, quan điểm của nhóm mình. Việc của nhóm trưởng hay thư kí là do nhóm học sinh tự định đoạt. Giáo viên không nên can thiệp sâu vào vấn đề tổ chức nhóm này 67 của học sinh. Tuy nhiên, qua nhiều tiết dạy khác nhau, giáo viên nên yêu cầu các học sinh trong nhóm thay đổi, luân phiên nhau làm nhóm trưởng, làm thư ký để các em tập trình bày (bằng lời hay viết). Giáo viên cần phân tích cho học sinh hiểu không nhất thiết cứ luôn luôn phải cử học sinh khá giỏi làm trưởng nhóm. Vì nếu làm như vậy, phần lớn hoạt động của nhóm sẽ chủ yếu là hoạt động của cá nhân học sinh này trong trường hợp các học sinh khác của nhóm có trình độ yếu hơn học sinh làm trưởng nhóm. Tuy nhiên, lúc đầu mới cho học sinh làm quen với hoạt động nhóm thì giáo viên nên đề nghị nhóm chọn các học sinh khá, giỏi làm nhóm trưởng, thư ký để thực hiện thành công mục đích dạy học và làm mẫu cho học sinh khác theo dõi cách trình bày, diễn giải Nhất thiết phải có nhóm trưởng (người đại diện nhóm) để trình bày phần thảo luận của nhóm trước lớp nhưng không nhất thiết nhóm phải có thư ký. Có thể nhóm trưởng vừa kiêm công việc của một thư ký. Nói chung là trong trường hợp này không có quy tắc nào cho việc tổ chức nhân sự của nhóm. Mấu chốt quan trọng nhất là các học sinh trong nhóm cần làm việc tích cực với nhau, trao đổi, thảo luận sôi nổi, các học sinh tôn trọng ý kiến của nhau, các cá nhân biết lắng nghe, tạo cơ hội cho tất cả mọi người trong nhóm trình bày ý kiến của mình, biết chia sẻ đồ dùng thí nghiệm, biết tóm tắt các ý kiến thống nhất của nhóm, các ý kiến chưa thống nhất, có đại diện trình bày ý kiến chung của nhóm sau thảo luận trước tập thể lớp là một nhóm hoạt động đúng yêu cầu. Trong quá trình học sinh thảo luận theo nhóm, giáo viên nên di chuyển đến các nhóm, tranh thủ quan sát hoạt động của các nhóm. Giáo viên không nên đứng một chỗ trên bàn giáo viên hoặc bục giảng để quan sát lớp học. Việc di chuyển của giáo viên có hai mục đích cơ bản: quan sát bao quát lớp, làm cho học sinh hoạt động nghiêm túc hơn vì có giáo viên tới; kịp thời phát hiện những nhóm thực hiện lệnh thảo luận sai để điều chỉnh hoặc tranh thủ chọn ý kiến kém chính xác nhất của một nh
File đính kèm:
- PPGD_BAN_TAY_NAN_BOT.pdf