Giáo án môn Bảo hộ lao động

Ảnh hưởng của thời gian điện giật:

Thời gian tác động của dòng điện vào cơ thể người rất quan trọng với các biểu hiện hình thái khác nhau. Thời gian tác dụng càng lâu, điện trởngười càng bịgiảm xuống vì lớp da bịnóng dần lên, lớp sừng trên da bị

chọc thủng ngày càng tăng.Khi thời gian tác động ngắn thì mối nguy hiểm phụthuộc vào nhịpđập của tim. Mỗi chu kỳ giãn của tim kéo dài độ 1 giây. Trong chu kỳ cókhoảng 0,1giây tim nghỉlàm việc (giữa trạng thái co và giãn) và ởthờiđiểm này tim rất nhạy cảm với dòng điện đi qua nó.

 

doc98 trang | Chia sẻ: dung89st | Lượt xem: 1295 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo án môn Bảo hộ lao động, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
im:
Khi làm khuôn phải chống nhiễm bụi (bụi cát, bột grafit, ). Khi sấy khuôn lõi cần chú ý không để tiếp xúc vào lò sấy và tạo điều kiện thông gió tốt để cho hơi ẩm thoát dễ dàng.
Khi nấu luyện và rót kim loại phải có biện pháp chống nóng, chống bỏng và chống mất nước ( với năng lượng lớn có thể gây viêm mắt, bỏng da ). Phải có áo quần và dày dép chuyên dụng để tránh bị bỏng
do nước kim loại bắn té vào cơ
thể
hoặc do các vật tiếp xúc với
nước kim loại, phải đeo kính luyện kim để chống tia bức xạ. Không làm mát bằng nước mà chỉ cho phép dùng quạt gió. Chú ý khi làm sạch vật đúc tránh va chạm với các ba via của các vật đúc làm xây xát chân tay do mặt xù xì, sắc cạnh của vật đúc. Phải trang bị phòng hộ lao động để tránh bụi và khí độc do quá trình nấu luyện sinh ra các như các bụi Mn, Si, CO, Si02, 
e - Kỹ thuật an toàn khi hàn và cắt kim loại:
Khi hàn điện:
Cần phải có mặt nạ che mặt và áo quần bảo hộ lao động chuyên
dùng trong khi hàn để
tránh làm cháy bỏng da, làm đau mắt cũng
như kim loại lỏng bắn toé gây bỏng da thợ hàn. Cần tránh hàn gần những nơi có vật dễ bắt lửa, dễ cháy nổ. Đề phòng hồ quang hàn
có thể
gây cháy, nổ
các vật xung quanh. Cần phải bao che xung
quanh khu vực hàn để khỏi ảnh hưởng đến những người làm việc lân cận.
Bố trí môi trường làm việc phải thoáng, mát, hoặc phải có quạt
thông gió. Khi hàn ở các vị trí khó khăn như: trong ống, những nơi chật chội, bụi nhiều,  thì cần có quạt thông gió. Khi hàn trên cao
cần có dây an toàn. Trong khi hàn ở
các thùng kín, nhà kín phải
thông gió tốt và phải có người canh chừng công nhân tránh tình trạng trạng trúng độc hơi hàn. Các nữ công nhân có bệnh tim, phổi không được hàn trong các thùng kín.
Các vật hàn trước khi hàn phải cạo sạch các loại sơn, nhất là sơn có pha chì, lau sạch mỡ, làm sạch vật hàn tối thiểu 50 mm hai bên đường hàn.
Tuyệt đối không được hàn các vật dụng đang chứa các chất có áp lực như hơi nén, chất lỏng, cao áp... Đối với các bình chứa các chất dễ cháy, nổ trước khi hàn phải súc sạch và khi hàn phải mở nắp để phòng cháy nổ.
Khi hàn trên cao, công nhân phải có dây bảo hiểm. Khi cắt các cấu kiện như: xà, dầm,  phải buộc chặt ở phần cắt để tránh các vật rơi xuống gây tai nạn.
Khu vực hàn cần có diện tích đủ để
đặt máy, sản phẩm hàn và
khoảng thao tác cho công nhân. Diện tích thao tác cho một công nhân
hàn không ít hơn 3 m2. Nền Nhà phải bằng phẳng, dẫn nhiệt kém và
không cháy. Màu tường tránh dùng màu sáng để hạn chế sự
xạ ánh sáng, gây chói mắt cho khu vực xung quanh.
phản
Máy hàn phải có bao che và được cách điện chắc chắn, cần nối đất các loại máy hàn để tránh rò điện gây điện giật. Hết sức tránh làm máy bị ướt do mưa hoặc nước bắn vào. Điện áp không tải của máy hàn phải đảm bảo quy định. Nguồn điện hàn phải đảm bảo an toàn, không xảy ra sự cố. Máy hàn nên đặt càng gần nguồn điện càng tốt.
Trước khi làm việc cần kiểm tra hệ thống điện nguồn, điện áp vào máy hàn đã đúng chưa, máy hàn có hoạt động bình thường không? Các đường dây điện có cách điện tốt không? Cầu dao có an toàn
không. Kiểm tra và vặn chặt các
ốc vít trên máy, đảm bảo máy
chạy êm không rung động nhiều, không phóng điện do vặn không chặt, ... Dây cáp hàn phải có cao su bao bọc. Khi bố trí các dây cáp hàn phải gọn, không gây khó khăn cho người khác, không vướng đường đi lại dễ gây vấp ngã sinh ra tai nạn, ...
Khi vận hành máy cần đặt máy đúng vị trí, không bị vênh, nghiêng làm máy dễ bị đổ. Thổi sạch bụi, chất dầu mở bẩn dính trên máy. Đây là những chất có thể sinh cháy, nổ. Khi làm sạch có thể dùng
các dụng cụ
bằng khí nén, lau bằng giẻ
khô... Khi sửa chữa máy
hoặc khi cần thay đổi dòng điện hàn (bằng cách thay đổi số vòng dây, thay đổi điện áp, hay đấu lại đầu dây) nhất thiết phải cắt điện ở cầu dao và công nhân phải có găng tay cách điện. Khi hết giờ làm việc, nhất thiết phải đóng ngắt cầu dao máy hàn và cầu dao chính.
Khi hàn khí:
Kiểm tra bình chứa khí còn trong thời hạn sử dụng hay không. Bình đã được kiểm định an toàn chưa. Nên xem trên bình có các vết nứt, vết lõm, hay các khuyết tật khác không và khi phát hiện có các khuyết tật thì cần tìm cách khắc phục kịp thời hoặc phải báo ngay
cho đơn vị
để tìm cách thay thế. Kiểm tra các van có vặn chặt
không. Không để lẫn các bình còn khí với các bình đã hết khí dễ gây nhầm lẫn khi sử dụng.
Không để
các bình chứa khí nén cạnh nơi có nguồn nhiệt nhất là
những nơi có ngọn lửa như
lò rèn, ngọn lửa hàn hơi. Khi áp suất
trong bình tăng lên cộng với những khuyết tật trên bình có thể gây nổ, vì thế các bình này cần cách xa nguồn nhiệt ít nhất là trên 1m và cách xa ngọn lửa khoảng trên 5 m. Bình chứa khí phải đặt thẳng
đứng (cho phép để
nghiêng trong 1 thời gian ngắn). Cần lau chùi
sạch các vết bẩn, dầu mỡ, các chất dễ bắt lửa trên các dây dẫn khí, van khí... vì những chất này dễ gây cháy, sinh ra nổ bình hoặc sinh ra hỏa hoạn.
Khi mở
van khí để
lau chùi hay vận hành, công nhân không được
đứng đối diện các van trên mà phải đứng về một bên. Các van khí có thể vặn “mở - đóng" dể dàng. Khi gặp những van chặt quá phải cẩn thận khi mở hoặc phải trả lại Nhà máy sản xuất để xử lý. Các bình chứa khí như ôxy thường không gây cháy, nhưng khi tiếp xúc các chất như dầu mỡ, thì chúng có thể bắt lửa và gây cháy nổ, vì thế tránh không cho dầu mỡ rơi dính vào các bình chứa.
Các bình chứa khí cháy có thể
phát lửa do sự
ma sát khi đóng mở
van vì vậy khi thao tác mở
bình phải làm nhẹ
nhàng, nên tránh va
đập khi vận hành, di chuyển, tránh gây ma sát mạnh phát tia lửa... Không nên để nhiều bình khí ( >10 bình) cùng nhiều công nhân trong
một phân xưởng. Khi có hiện tượng cháy quặt của ngọn lửa, thì lập
tức phải khoá các van khí lại. Khi có hỏa hoạn thì nhất thiết phải chuyển các bình axêtylen đi trước. Khi vận hành trong thời gian dài, bọt xốp trong bình axêtylen có thể bị nhỏ vụn và nén chặt lại làm cho lượng khí axêtylen tràn lên phía trên, rất nguy hiểm khi có hiện tượng cháy quặt của ngọn lửa.
Khi hàn cần để lại một ít khí axêtylen để không khí không vào bình thể gây nổ và để bảo vệ lớp bọt xốp cùng axêtôn trong bình.
Không cho phép mang vác các bình trên vai, trên lưng mà phải dùng xe đẩy hay cáng khiêng, ... Cho phép lăn đẩy các bình trong các khoảng cách ngắn (khoảng 15 ÷ 25 m).
Kho chứa các bình khí nén phải cách xa các ngọn lửa khoảng trên 10 m. Các bình chứa bị cháy có thể gây nổ, cho nên việc trước hết cần tách các bình gây cháy ra khỏi nơi nguy hiểm, tách chúng khỏi các bình chứa khí khác.
Khi sử dụng bình điều chế khí axêtylen thì khoá bảo hiểm phải luôn luôn đổ đầy nước đến mức quy định, phải đặt bình cách xa nơi có ngọn lửa trên 10 m, cần kiểm tra các van và khoá an toàn trước khi làm việc. Không dùng các chổi kim loại để làm sạch các van, khoá, không dùng chổi đồng để gạt đá vôi ra khỏi bình vì dễ gây tia lửa, gây cháy nổ. Khi mở bình cần nhẹ nhàng, không hút thuốc khi tiếp xúc với các bình trước khi vận hành. Khi đang làm việc, cần phải có người thường xuyên kiểm tra và quan sát, Không để đất đèn trong
các hộp vì dể
sinh khí có thể
làm cháy kho. Các bình chứa khí
thường được bảo quản nơi có tường xây bao quanh chắc chắn.
f - Kỹ thuật an toàn trong gia công cắt gọt:
Biện pháp phòng ngừa chung:
Hướng dẫn cho công nhân cách sử dụng máy thành thạo. Phải chọn
vị trí đứng gia công cho thích hợp với từng loại máy. Phải mang
dụng cụ bảo hộ lao động, ăn mặc gọn gàng, đeo kính bảo hộ.
Trước khi sử dụng máy phải kiểm tra hệ thống điện, tiếp đất, siết chặt các bu lông ốc vít, kiểm tra độ căng đai, kiểm tra các cơ cấu truyền dẫn động, tra dầu mỡ, trước khi gia công cần chạy thử máy
để kiểm tra. Những thiết bị
trong khi sản xuất gây rung động lớn
phải bố
trí xa nơi có mật độ
công nhân lớn và nền móng phải có
hào chống rung.
Các nút điều khiển phải nhạy, làm việc tin cậy. Các bộ phận điều
khiển máy phải bố
trí vừa tầm tay cho công nhân thuận tiện thao
tác, không phải với, không phải cúi.
Đối với các máy có dung dịch nước tưới làm mát, xí nghiệp phải cho công nhân sử dụng máy đó biết tính chất, đặc điểm và mức độ độc hại để ngừa trước những nguy hiểm có thể xảy ra.
Khi hết ca, công nhân đứng máy phải ngắt nguồn điện, lau chùi máy, thu dọn dụng cụ gọn gàng, bôi trơn những nơi quy định. Việc thu dọn phoi phải dùng các móc, cào, bàn chải, chổi Cấm không được dùng tay trực tiếp thu dọn phoi. Công nhân làm việc máy nào thì chỉ được phép lau chùi máy đó vì họ hiểu rõ máy mình đang làm việc tốt hơn máy khác. Cấm dùng tay không lau chùi máy mà phải dùng giẻ, bàn chải sắt. Các thiết bị làm sạch phôi liệu phải bố trí ở buồng riêng, có thiết bị thông gió và có các thiết bị hút bụi cục bộ ở những nơi sinh bụi. Tất cả các bộ phận truyền động của các máy đều phải che chắn kín, có cửa cài chắc chắn kể cả các khớp nối ma sát, khớp nối trục các đăng.
Các biện pháp an toàn khi sử dụng một số máy công cụ: Kỹ thuật an toàn đối với máy tiện:
Yêu cầu các đồ gá kẹp chi tiết gia công như mâm cặp, ụ động, ... phải được bắt chặt trên máy.
Khi tiện các chi tiết máy quay nhanh, mũi tâm của ụ động phải là mũi tâm quay. Nếu chi tiết gia công có chiều dài lớn hoặc yếu phải có giá đỡ phía sau để đề phòng chi tiết văng ra do lực ly tâm hoặc đề phòng phôi uốn.
Không được gá dao công sôn quá dài vì khi phôi không tròn hay
kém cứng vững dễ
gây ra rung động làm dao bị
gãy, mảnh dao
bắn ra gây nguy hiểm cho người . Đối với máy tiện vạn năng thông thường, chiều dài phôi nhô ra phía sau trục chính không được quá 0,5m.
Không cho phép dùng dũa để rà các cạnh sắc của chi tiết khi đang tiện, bởi vì có thể trượt, mất đà làm tay tỳ dũa trượt vào vật đang quay gây tai nạn.
Để đảm bảo phoi tiện không đùn ra quá dài làm đứt tay, cuốn vào
bề mặt chi tiết đang gia công làm giảm độ nhẵn bề mặt chi tiết hoặc gây khó khăn cho việc quan sát chi tiết, dao cắt người ta chọn loại dao bẻ phoi hoặc chọn thông số hình học của dao hợp lý. Ví dụ: Khi tiện thép C45 hoặc thép hợp kim 20Cr với tốc độ
cắt V = 100
300m/ph, nếu chọn thông số hình học của dao sau:
=450; λ = -100; γ = -50 sẽ có tác dụng bẻ phoi tốt. Kỹ thuật an toàn đối với máy phay:
Đối với máy phay, tốc độ cắt gọt nhỏ hơn máy tiện, song cũng cần hết sức lưu ý vấn đề an toàn.
Các đầu vít trên bàn phay, đầu phân độ
và những chỗ
có thể
vướng phải được che chắn tốt. Khi tháo lắp dao phay cần có gá kẹp chuyên dùng. Khi dao đang chạy không được đưa tay vào vùng dao hoạt động.
Cơ cấu phanh hãm bánh đà của máy phay phải hoạt động tốt,
nhạy và bảo đảm an toàn.
Kỹ thuật an toàn trên máy khoan:
Đối với máy khoan, khi gá lắp mũi khoan phải kẹp chặt mũi khoan và đảm bảo đồng tâm với trục chủ động.
Các chi tiết gia công phải được kẹp chặt trực tiếp hoặc qua gá đỡ với bàn khoan. Tuyệt đối không được dùng tay để giữ chi tiết gia công và không được dùng găng tay khi tiến hành khoan.
Khi phoi ra bị quấn vào mũi khoan hoặc đồ gá mũi khoan, không được dùng tay trực tiếp tháo gỡ phoi khoan.
Kỹ thuật an toàn đối với máy mài:
Đá mài gồm những hạt mài kết dính lại bằng các chất kết dính (như bakelit, gốm, ) nên chịu kéo kém. Đá mài cứng nhưng dòn, dễ bị vỡ, không chịu được rung động và tải trọng va đập. Độ ẩm của đá mài cũng ảnh hưởng nhiều đến độ bền của đá.
Đặc điểm chung của máy mài là tốc độ lớn ( V= 35 ÷ 300 m/s). Vì vậy khi đá mài quay sẽ gây ra lực ly tâm rất lớn. Nếu đá mài không đảm bảo liên kết tốt, không cân bằng sẽ gây vỡ đá.
Việc chọn đá mài phải căn cứ vào yêu cầu kỹ thuật của quy trình gia công để chọn đúng loại đá. Sau khi lắp đá phải cân bằng động và phải thử nghiệm độ bền cơ học của đá như sau: đối với đá có đường kính từ Ø30 ÷ Ø 90 mm phải kiểm tra với tốc độ cao hơn tốc độ định mức 50% trong thời gian 3 phút, đường kính Ø150 ÷ Ø475mm trong 5 phút và Ø > 500 mm trong 7 phút. Nếu không biết tốc độ quay cho phép của đá thì phải thử với tốc độ lớn hơn
60% tốc độ làm việc trong 10 phút.
Đá mài phải được bảo quản ở nơi khô ráo. Không được để trong môi trường có axit và có chất ăn mòn khác. Cấm không được xếp đá chồng lên nhau hoặc chồng các vật nặng khác lên đá để tránh rạn nứt. Các loại đá mài dùng chất kết dính bằng magiê, nếu thời hạn bảo quản quá một năm thì không được sử dụng nữa vì chất kết dính không bảo đảm nữa.
Khi lắp vào trục chính, đá mài phải được kẹp đều giữa hai mặt bích bằng nhau. Giữa đá và mặt bích kẹp phải độn một lớp vật liệu đàn hồi. Khi lắp và điều chỉnh đá cấm dùng búa thép để gõ đá mài. Khe hở giữa trục và lỗ đá phải đảm bảo trong khoảng từ
25% đường kính lỗ
để đề
phòng trục giãn nở
nhiệt trong quá
­
trình làm việc. Cần phải cân bằng tĩnh hoặc cân bằng động.
Khi đường kính đá mài giảm và khoảng cách giữa đá và bích kẹp nhỏ hơn 3 mm thì phải thay đá mới. Đá mài khi làm việc phải có bao che chắn, khe hở giữa đá và mặt bên phải nằm trong khoảng từ 10 ÷ 15mm, vật liệu che chắn không được quá mỏng và phải làm theo tiêu chuẩn quy định, góc mở của vỏ che chắn chọn sao cho nhỏ nhất để tránh gây tai nạn.
Công nhân đứng máy không được đứng ở phía không có bao che chắn. Khi mài thô, mài nhẵn bằng phương pháp khô thì yêu cầu phải có máy hút bụi.
Kỹ thuật an toàn đối với máy bào:
Tất cả máy bào đều cần khống chế khoảng hành trình của đầu bào.
Trong khi máy chạy không được qua lại trước hành trình chuyển
động của máy. Các thiết bị
phải có đầy đủ các cơ
cấu an toàn.
Những cụm kết cấu có chuyển động lui tới trên máy bào giường hay bào ngang phải bố trí vị trí vươn xa nhất của bộ phận đó di chuyển quay vào tường, cách tường tối thiểu 0,5 m hoặc cách mép đường vận chuyển tối thiểu 1m.
Phải bao che các cơ
cấu bánh răng, thanh răng, cơ
cấu dịch
chuyển. Trong khi máy đang chạy, tuyệt đối không gá lắp điều chỉnh vật gia công.
III.3. Kỹ thuật an toàn điện
1) Một số khái niệm cơ bản về an toàn điện
a - Tác động của dòng điện đối với cơ thể người:
Dòng điện đi qua cơ thể con người gây nên phản ứng sinh lý phức tạp
như
làm huỷ
hoại bộ
phận thần kinh điều khiển các giác quan bên trong
của người , làm tê liệt cơ thịt, sưng màng phổi, huỷ hoại cơ quan hô hấp và tuần hoàn máu.
Một trong những yếu tố
chính gây tai nạn cho người là dòng điện
(phụ thuộc điện áp mà người chạm phải) và đường đi của dòng điện qua cơ thể người vào đất.
Dòng điện có thể tác động vào cơ thể người qua một mạch điện kín hoặc bằng tác động bên ngoài như phóng điện hồ quang.
Tác hại và hậu quả của dòng điện gây nên phụ thuộc vào độ lớn và
loại dòng điện, điện trở
của người, đường đi của dòng điện qua cơ
thể
người, thời gian tác dụng và tình trạng sức khỏe của người.
Cho đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về trị số của dòng điện có
thể
gây chết người . Trường hợp nói chung, dòng điện có thể
làm chết
người có trị số khoảng 100 mA. Tuy nhiên vẫn có trường hợp trị số dòng điện chỉ khoảng 5 ÷ 10 mA đã làm chết người tuỳ thuộc điều kiện nơi xảy ra tai nạn và trạng thái sức khoẻ của nạn nhân.
Nguyên nhân chết người, do dòng điện phần lớn làm hủy hoại khả
năng làm việc của các cơ quan của người hoặc làm ngừng thở hoặc do sự
thay đổi những hiện tượng sinh hóa trong cơ
thể
người. Trường hợp bị
bỏng trầm trọng cũng gây nguy hiểm chết người.
Hiện nay có nhiều quan điểm giải thích về

quá trình tổn thương do
điện. Từ
lâu người ta cho rằng khi có dòng điện đi qua sẽ
tạo nên hiện
tượng phân tích máu và các chất nước khác làm tẩm ướt các tổ chức huyết cầu và làm đầy huyết quản. Nhiều Nhà sinh lý học và bác sỹ lại cho rằng do dòng điện làm cho sự co giãn của tim bị rối loạn không lưu thông máu được trong cơ thể. Ngày nay một số Nhà khoa học giải thích nguyên nhân là do dòng điện gây nên hiện tượng phản xạ do quá trình kích thích và làm
đình trệ hoạt động của cơ
quan não bộ, điều đó có nghĩa là sẽ
hủy hoại
chức năng làm việc của cơ quan hô hấp.
Điện trở của người:
Thân thể người gồm có da thịt xương, thần kinh, máu... tạo thành. Lớp da có điện trở lớn nhất mà điện trở của da lại do điện trở của lớp sừng trên da (dày khoảng 0,05ữ0,2 mm) quyết định. Xương và da có điện trở tương đối lớn còn thịt và máu có điện trở bé. Điện trở của người rất không ổn định và không chỉ phụ thuộc vào trạng thái sức khoẻ của cơ thể từng lúc mà còn phụ thuộc vào môi trường xung quanh, điều kiện tổn thương...
Điện trở của người có thể thay đổi từ vài chục k
đến 600
. Điện
trở người phụ thuộc nhiều vào chiều dày lớp sừng da, trạng thái thần kinh của người . Nếu mất lớp sừng trên da thì điện trở người sẽ giảm xuống đáng kể. Khi có dòng điện đi qua người, điện trở người sẽ giảm xuống do
da bị
đốt nóng, mồ
hôi thoát ra,
 Thí nghiệm cho thấy: với dòng điện
0,1mA điện trở
người Rng = 500.000	, với dòng điện 10 mA điện trở
người Rng = 8.000	.
Mặt khác nếu da người bị dí mạnh trên các cực điện, điện trở da cũng
giảm đi. Với điện áp bé 50 diện tích tiếp xúc.
60 V có thể
xem điện trở
tỷ lệ nghịch với
Điện trở người giảm tỷ lệ với thời gian tác dụng của dòng điện vì da bị đốt nóng và có sự thay đổi về điện phân.
Điện áp đặt vào cũng rất ảnh hưởng đến điện trở của người vì ngoài hiện tượng điện phân nêu trên còn có “hiện tượng chọc thủng” khi điện áp U > 250 V. Với lớp da mỏng thì hiện tượng chọc thủng đã có thể xuất hiện ở điện áp 10 - 30 V, lúc này điện trở người xem như tương đương bị bóc hết lớp da ngoài.
Ảnh hưởng của trị số dòng điện giật:
Dòng điện chính là nhân tố vật lý trực tiếp gây tổn thương khi bị điện
gật. Điện trở
của thân người, điện áp đặt vào người chỉ
là những đại
lượng làm biến đổi trị số dòng điện mà thôi.
Tác động của dòng điện lên cơ thể người phụ thuộc nhiều vào trị số của nó. Những trị số trên được rút ra từ các trường hợp tai nạn thực tế với phương pháp đo lường tinh vi và chính xác. Trên bảng IV.2 dẫn ra các trạng thái cơ thể người khi trị số dòng điện thay đổi.
Tuy nhiên khi phân tích về tai nạn do điện giật, không nên đơn thuần xét theo trị số dòng điện mà phải xét đến cả môi trường, hoàn cảnh xảy ra
tai nạn cũng như
khả
năng phản xạ
của nạn nhân, bởi vì trong nhiều
trường hợp điện áp bé, dòng điện có trị không lớn hơn trị số dòng điện gây choáng bao nhiêu nhưng đã có thể làm chết người .
Hiện nay trị số dòng điện an toàn quy định 10 mA đối với dòng xoay
chiều có tần số 50
60Hz và 50mA đối với dòng một chiều.
Bảng III.1: Tác động của trị số dòng điện lên cơ thể người
Dòng điện
( mA)
Tác dụng của dòng điện xoay chiều 50ữ-60 Hz
Dòng điện một chiều
0,6	1,5
Bắt đầu thấy tê ngón tay
Không có cảm giác gì
2	3
Ngón tay tê rất mạnh
Không có cảm giác gì
5	7
Bắp thịt co lại và rung
Đau như kim châm, cảm giác thấy nóng
8	10
Tay đã khó rời khỏi vật có điện nhưng vẫn rời được
Nóng tăng lên
20	25
Tay không rời được vật có điện, đau, khó thở
Nóng càng tăng lên, thịt co quắp lại nhưng chưa mạnh
50	80
Thở bị tê liệt. Tim bắt đầu đập mạnh
Cảm giác nóng mạnh. Bắp thịt
ở tay co rút. Khó thở
90	100
Thở bị tê liệt. Kéo dài 3 giây hoặc dài hơn, tim bị tê liệt đi đến ngừng đập

Thở bị tê liệt
Ảnh hưởng của thời gian điện giật:
Thời gian tác động của dòng điện vào cơ thể người rất quan trọng với các biểu hiện hình thái khác nhau. Thời gian tác dụng càng lâu, điện trở
người càng bị
giảm xuống vì lớp da bị
nóng dần lên, lớp sừng trên da bị
chọc thủng ngày càng tăng.
Khi thời gian tác động ngắn thì mối nguy hiểm phụ

thuộc vào nhịp
đập của tim. Mỗi chu kỳ giãn của tim kéo dài độ 1 giây. Trong chu kỳ có
khoảng 0,1giây tim nghỉ
làm việc (giữa trạng thái co và giãn) và ở
thời
điểm này tim rất nhạy cảm với dòng điện đi qua nó.
Nếu thời gian dòng điện qua người lớn hơn 1 giây thì thế

nào cũng
trùng với thời điểm nói trên của tim. Thí nghiệm cho thấy rằng dù dòng điện lớn (gần bằng 10 mA) đi qua người mà không gặp thời điểm nghỉ của tim cũng không có nguy hiểm gì.
Căn cứ vào lý luận trên, ở các mạng cao áp 110 kV, 35 kV, 10 kV, 6 kV,  tai nạn do điện gây ra ít dẫn đến trường hợp tim ngừng đập hay ngừng hô hấp. Bởi vì với mạng điện áp cao, dòng điện xuất hiện trước khi người chạm vào vật mang điện, nạn nhân chưa kịp chạm vào vật mang điện thì hồ quang đã phát sinh và dòng điện rất lớn (có thể vài ampe). Dòng điện

File đính kèm:

  • docgiaO_AN_DIEN_20150725_111036.doc