Đề tài Vận dụng phương pháp dạy học dựa trên giải quyết vấn đề đối với bộ môn vật lý cấp trung học cơ sở

4. Các bước giải quyết vấn đề:

- Vận dụng kĩ thuật dạy học bản đồ tư duy để giải quyết vấn đề và nó giúp ta thể hiện được các bước đi tiếp theo, phát triển lối tư duy hàng dọc (một chiều), đến tư duy hàng ngang (hai chiều) và tư duy mở rộng (đa chiều)

- Giải quyết vấn đề gồm các bước sau đây:

 

doc8 trang | Chia sẻ: rimokato | Lượt xem: 3847 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vận dụng phương pháp dạy học dựa trên giải quyết vấn đề đối với bộ môn vật lý cấp trung học cơ sở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
 DỰA TRÊN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
ĐỐI VỚI BỘ MÔN VẬT LÝ CẤP THCS
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, sự thử thách trước nguy cơ tụt hậu trên con đường tiến vào thế kỷ XXI bằng cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới căn bản về phương pháp dạy học 
Đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới cách thức làm việc giữa GV và HS theo hướng phát huy vai trò chủ thể của HS, đặt HS vào vị trí trung tâm của quá trình dạy học, giúp HS đạt được những mục tiêu học tập trong các hoạt động của chính họ .Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt, thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực bảo đảm sự thành đạt trong cuộc sống. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết cách phát hiện và giải quyết vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của bản thân, gia đình và cộng đồng là một việc làm cần thiết, mang tính chiến lược lâu dài. 
Trong xu thế đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy người học làm trung tâm, người thầy nên xây dựng cho mình một phương pháp giảng dạy riêng phù hợp với mục tiêu, bản chất của vấn đề cần trao đổi, phù hợp với thành phần nhóm lớp học, các nguồn lực, công cụ dạy học sẵn có. Trong đó phương pháp dạy học dựa trên giải quyết vấn đề là phương pháp đang được các nền giáo dục ở nhiều nước quan tâm nghiên cứu và ứng dụng, nhằm khai thác có hiệu quả tính tự giác và tích cực của học sinh trong lúc học, giúp các em có thể phát huy được khả năng của bản thân, nâng cao thành tích học tập. 
 Dạy học dựa trên giải quyết vấn đề là người học được đặt vào trong các tình huống có vấn đề, tự mình khám phá tri thức, được trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề theo suy nghĩ của bản thân, động não tư duy các phương án giải quyết khác nhau trong một thời gian nhất định. 
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII, Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII và được thể chế hoá trong Luật Giáo dục: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS” (điều 24.2 – Luật GD).
Trong dạy học dựa trên giải quyết vấn đề, kiến thức, kỹ năng cần học tập không được trình bày dưới dạng mặc định, có sẵn mà tiềm ẩn trong các vấn đề. Khi giải quyết các vấn đề sẽ được bộc lộ, thông qua giải quyết vấn đề, người học sẽ chiếm lĩnh được các kiến thức, kỹ năng. Vì vậy, việc phát hiện, xây dựng vấn đề, tổ chức các hoạt động giải quyết vấn đề là nội dung trọng tâm của dạy học theo kiểu dạy học dựa trên giải quyết vấn đề.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
-Sự chuyển biến về đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông còn ở mức độ. Phổ biến vẫn còn cách dạy thông báo các kiến thức định sẵn, cách học thụ động. Tuy nhiên trong một số tiết dạy của các GV đã cố gắng tổ chức theo hướng tổ chức cho HS hoạt động, tự lực chiếm lĩnh tri thức mới nhưng chưa nhiều và chưa mang tính phổ biến đại trà.
-Phải tạo động lực đổi mới PPDH cho GV, hoạt động đổi mới PPDH chỉ có thể thành công khi GV có động lực hành động và chuyển hoá được từ ý chí trở thành tình cảm và tinh thần trách nhiệm đối với HS, đối với nghề dạy học.
-Hoạt động đổi mới PPDH của GV phải có sự hỗ trợ thường xuyên của đồng nghiệp thông qua dự giờ thăm lớp và cùng rút kinh nghiệm.
-Trong quá trình chỉ đạo đổi mới PPDH, cần nghiên cứu để tổ chức hợp lý việc lấy ý kiến của HS về PPDH của thầy, cô giáo với tinh thần xây dựng.
-Quá trình thực hiện đổi mới PPDH phải là quá trình hoạt động tự giác của bản thân GV và là phù hợp với yêu cầu của cơ quan quản lý giáo dục.
- Giáo viên được tham gia tập huấn đầy đủ các lớp bồi dưỡng như thay sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học, các kĩ thuật dạy học tích cực. Đặc biệt trong các năm gần đây trong nhà trường, tổ chuyên môn tổ chức nhiều chuyên đề về đổi mới PPDH sử dụng có hiệu quả các kĩ thuật dạy học tích cực.
Qua thực tế giảng dạy tổ Tự nhiên 1 – nhóm Vật lý đã có sự đầu tư, định hướng những giải pháp cụ thể để có thể vận dụng PPDH dựa trên giải quyết vấn đề phù hợp với đặc trưng của bộ môn.
IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHUYÊN ĐỀ: “Dạy học dựa trên giải quyết vấn đề”
1)Khái niệm: 
Dạy học dựa trên giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học theo định hướng lấy học sinh làm trung tâm. Trong đó học sinh học về các chủ đề thông qua các vấn đề có trong thực tiễn và liên quan tới nội dung môn học. Làm việc theo nhóm, học sinh xác định những điều đã biết, những điều cần biết, và làm thế nào để có được những thông tin cần biết trong việc giải quyết vấn đề. (Answers.com)
Dạy học dựa trên giải quyết vấn đề là dạy học dựa trên các vấn đề thực tiễn có liên quan đến người học và liên quan đến nội dung học tập đã được quy định trong “chuẩn kiến thức, kỹ năng”. Trên cơ sở đó, người học tự chiếm lĩnh tri thức và phát triển các năng lực như lập kế hoạch, tự định hướng học tập, hợp tác, các kỹ năng tư duy bậc cao, kỹ năng sống. (PGS.TS Nguyễn Văn Khôi) 
2. Ưu, nhược điểm của phương pháp dạy học dựa trên giải quyết vấn đề
	2.1 Ưu điểm
 -Phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập: Vì phương pháp dạy học dựa trên vấn đề dựa trên cơ sở tâm lý là kích thích hoạt động nhận thức bởi sự tò mò và ham hiểu biết cho nên thái độ học tập của người học mang nhiều yếu tố tích cực. Năng lực tư duy của người học một khi được khơi dậy sẽ giúp họ cảm thấy thích thú và trở nên tự giác hơn trên con đường tìm kiếm tri thức.
 -Người học được rèn luyện các kỹ năng cần thiết: Thông qua hoạt động tìm kiếm thông tin và lý giải vấn đề của cá nhân và tập thể, người học được rèn luyện thói quen/kỹ năng đọc tài liệu, phương pháp tư duy khoa học, tranh luận khoa học, làm việc tập thể… Đây là những kỹ năng rất quan trọng cho người học đối với công việc sau này của họ.
 -Người học được sớm tiếp cận những vấn đề thực tiễn: Giáo dục của ta bấy lâu nay thường bị phê phán là xa rời thực tiễn. Phương pháp này có thể giúp người học tiếp cận sớm với những vấn đề đang diễn ra trong thực tế có liên quan chặt chẽ với chuyên ngành đang học; đồng thời họ cũng được trang bị những kiến thức, kỹ năng để giải quyết những vấn đề đó.
 -Bài học được tiếp thu vừa rộng vừa sâu, được lưu giữ lâu trong trí nhớ người học: Do được chủ động tìm kiếm kiến thức và vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề, người học có thể nắm bắt bài học một cách sâu sắc và vì vậy họ nhớ bài rất lâu so với trường hợp tiếp nhận thông tin một cách thụ động thông qua nghe giảng thuần túy.
 -Đòi hỏi giáo viên không ngừng vươn lên: Việc điều chỉnh vai trò của giáo viên từ vị trí trung tâm sang hỗ trợ cho hoạt động học tập đòi hỏi nhiều nổ lực từ phía giáo viên. Đồng thời theo phương pháp này, giáo viên cần tìm tòi, xây dựng những vấn đề vừa lý thú vừa phù hợp với môn học và thời gian cho phép; biết cách xử lý khéo léo những tình huống diễn ra trong thảo luận… Có thể nói rằng phương pháp dạy học dựa trên vấn đề tạo môi trường giúp giáo viên không ngừng tự nâng cao trình độ và các kỹ năng sư phạm tích cực.
2.2 Nhược điểm
-Khó vận dụng ở những môn học có tính trừu tượng cao: Phương pháp này không cho kết quả như nhau đối với tất cả các môn học, mặc dù nó có thể được áp dụng một cách rộng rãi. Thực tế cho thấy những môn học gắn bó càng nhiều với thực tiễn thì càng dễ xây dựng vấn đề, và vì vậy khả năng ứng dụng của phương pháp càng cao.
-Khó vận dụng cho lớp đông: Lớp càng đông thì càng có nhiều nhóm nhỏ vì vậy việc tổ chức, quản lý sẽ càng phức tạp. Một GV rất khó theo dõi và hướng dẫn thảo luận cho cả chục nhóm người học. Trong trường hợp này, vai trò trợ giảng sẽ rất cần thiết.
3.Xác định được kĩ năng cần thiết trong dạy học dựa trên giải quyết vấn đề:
- Vấn đề phải chứa đựng sự nghi ngờ, sự không chắc chắn, khó khăn và được đưa ra để thảo luận.
- Mức độ tư duy của học sinh khi tham gia giải quyết vấn đề thể hiện ở 3 mức độ.
+ Mức độ 1: Bài tập vận dụng
- Thường là bài tập ở cuối bài hay cuối chương vấn đề sẽ phát triển kĩ năng tư duy ở mức độ biết được giới hạn trong khuôn khổ chương trình.
+ Mức độ 2: Câu chuyện thực tế dựa trên bài tập.
- Là sự chuyển hóa các bài tập vận dụng ở mức độ 1 thành các tình huống trong thực tiễn và được thể hiện thông qua các câu chuyện. Mức độ này giúp học sinh phát triển kĩ năng hiểu và vận dụng; có sự liên quan của tình huông và thực tiễn cuộc sống của học sinh, từ đó học sinh sẽ nhận thức rõ về nội dung môn học và tích cực tham gia tìm hiểu, giải quyết vấn đề.
+ Mức độ 3: Tình huống thực tế.
- Đây là mức độ cao nhất của vấn đề trong quá trình tìm hiểu thì học sinh sẽ phát triển các kĩ năng tư duy bậc cao như phân tích, tổng hợp, so sánh thông qua các hoạt động khám phá nghiên cứu và giải quyết vấn đề. 
4. Các bước giải quyết vấn đề:
- Vận dụng kĩ thuật dạy học bản đồ tư duy để giải quyết vấn đề và nó giúp ta thể hiện được các bước đi tiếp theo, phát triển lối tư duy hàng dọc (một chiều), đến tư duy hàng ngang (hai chiều) và tư duy mở rộng (đa chiều)
- Giải quyết vấn đề gồm các bước sau đây:
Phân tích
vấn đề
Lựa chọn
Giải pháp
Thực thi giải pháp
Đánh giá giải pháp
5. Các mức độ vận dụng PP dạy học dựa trên giải quyết vấn đề:
- Việc vận dụng các mức độ của PP dạy học dựa trên giải quyết vấn đề gồm 4 mức độ và có 5 nội dung cơ bản. 
+ Mức 1: 
- GV đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề;
- HS thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của GV;
-GV nêu kết luận đánh giá kết quả làm việc của HS.
+ Mức 2:
- GV nêu vấn đề, gợi ý để HS tìm ra cách giải quyết vấn đề;
- HS thực hiện cách giải quyết vấn đề;
- GV và HS cùng kết luận và đánh giá.
+ Mức 3:
- GV cung cấp thông tin tạo tình huống;
- HS phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự lực đề xuất các giả thiết và lựa chọn các giải pháp;
- HS thực hiện cách giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất lượng, hiệu quả và kết luận. Khi cần, GV bổ sung, chính xác hóa kết luận.
+ Mức 4:
- HS chủ động thực hiện tất cả các nội dung trên;
- GV chỉ tham gia khi cần thiết.
Tóm lại, ở mức độ 1, GV thực hiện tất cả bước, HS chỉ tham gia giải quyết vấn đề, hoạt động của Gv chiếm ưu thế. Theo mức độ tăng dần, người học được chủ động tham gia nhiều hơn. Đến mức độ 4 (nghiên cứu), hoạt động của HS chiếm ưu thế, chủ động thực hiện tất cả các bước, GV chỉ chính xác hóa kết luận khi cần. Đây là mức đạt đến dạy học theo định hướng nghiên cứu một cách hoàn chỉnh.
Trên thực tế ở địa phương hay mục tiêu của môn học cấp THCS mỗi GV có thể đảm nhiệm một số môn học nên rất khó áp dụng dạy học dựa trên giải quyết vấn đề nên việc lựa chọn bằng cách tìm sự giao thoa giữa các môn học đó; điều kiện dạy học cụ thể; sự hiểu biết của GV về dạy học dựa trên giải quyết vấn đề; quá trình làm quen của HS với các mức độ dạy học dựa trên giải quyết vấn đề; trình độ năng lực của HS có thể áp dụng ở mức độ 2, 3 hay 4.
V. NHỮNG BIỆN PHÁP GÓP PHẦN THỰC HIỆN TỐT: DẠY HỌC DỰA TRÊN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ĐỐI VỚI BỘ MÔN VẬT LÝ Ở TRƯỜNG THCS.
1/ Nắm bắt được mục tiêu của mỗi bài học (Lượng hoá kiến thức)
- Mục tiêu: Là căn cứ để đánh giá chất lượng của học sinh và hiệu quả bài dạy của giáo viên. Người học sinh phải nắm được cái gì sau bài học. Mục tiêu cần phải được lượng hoá.
Có 3 nhóm mục tiêu:
a. Mục tiêu kiến thức:
Yêu cầu học sinh phải lĩnh hội các khái niệm vật lý cơ sở để có thể mô tả đúng các hiện tượng và quá trình vật lý cần nghiên cứu và giải thích một số hiện tượng và quá trình vật lý đơn giản. Tuy chưa thể định nghĩa chính xác khái niệm đó, nhưng cũng cần phải giúp học sinh nhận biết được những dấu hiệu cơ bản có thể quan sát, cảm nhận được của các khái niệm đó. Sau đó học sinh vận dụng cho quen trong ngôn ngữ khoa học thay cho ngôn ngữ thông thường ban đầu.
Thí dụ khái niệm ảnh ảo: Thông thường học sinh chỉ biết cái ảnh cụ thể, có thể nhìn thấy, sờ thấy như ảnh ở thẻ học sinh, ảnh in trên báo... ảnh ảo là một khái niệm khác hẳn, tuy là ảnh ảo nhưng vẫn tồn tại thật, vẫn xác định được vị trí, độ lớn nhưng lại không hứng được trên màn. Học sinh phân biệt được ảnh ảo ảnh thật.
Chú trọng việc xây dựng kiến thức xuất phát từ những hiểu biết, những kinh nghiệm đã có của học sinh rồi sửa đổi, bổ sung phát triển thành kiến thức khoa học. Tránh việc đưa ra ngay những khái niệm trừu tượng xa lạ với học sinh, diễn đạt bằng những câu, chữ khó hiểu. Thông thường một định luật vật lý có hai phần: Phần định tính và định lượng. Tuỳ từng định luật giáo viên có thể đưa cả hai phần hay không? 
-Thí dụ: 
+ Biên độ giao động của vật giao động càng lớn thì âm phát ra càng to.
+ Hiệu điện thế giữa hai đầu bóng đèn càng lớn (nhỏ) thì dòng điện chạy qua bóng đèn có cường độ dòng điện càng lớn (nhỏ).
- Những hiểu biết về phương pháp nhận thức khoa học cũng được nâng cao thêm một mức. Cần hướng dẫn học sinh thường xuyên đưa nhiều dự đoán khác nhau về cùng một hiện tượng và tự lực đề xuất các phương án làm thí nghiệm để kiểm tra dự đoán. - Cần hướng dẫn học sinh thực hiện một số phương pháp suy luận khác như phương pháp tương tự, phương pháp tìm nguyên nhân của hiện tượng. Những hiểu biết về phương pháp nhận thức đó, nhằm rèn luyện cho học sinh thói quen mỗi khi rút ra một kết luận không thể dựa vào cảm tính mà phải có căn cứ thực tế và biết cách suy luận chặt chẽ.
b. Mục tiêu về kỹ năng
- Về kỹ năng quan sát: Bước đầu xây dựng cho học sinh biết quan sát mục đích, có kế hoạch. Trong một số trường hợp đơn giản học sinh có thể tự vạch ra kế hoạch quan sát chứ không phải tuỳ tiện ngẫu nhiên, có khi phải tổ chức cho học sinh trao đổi kỹ trong nhóm về mục đích kế quan sát rồi mới thực hiện quan sát.
- Kỹ năng thu thập xử lý thông tin từ quan sát thí nghiệm chú trọng trong việc ghi chép các thông tin thu thập được, lập thành biểu bảng một cách trung thực. Việc xử lý thông tin, dữ liệu thu được phải theo những phương pháp xác định, thực chất phương pháp suy luận là để từ những dữ liệu, số liệu cụ thể rút ra kết luạn chung (quy nạp) hay từ những tính chất quy luật chung suy ra những biểu hiện cụ thể trong thực tiễn (suy diễn). Chú trọng ngôn ngữ phát triển, ngôn ngữ vật lý ở học sinh. Yêu cầu học sinh phải sử dụng những khái niện mới để mô tả và giải thích các hiện tượng, các quá trình, rèn luyện kỹ năng diễn đạt rõ ràng, chính xác ngôn ngữ của vật lý, thông qua việc trình bày các kết quả quan sát nghiên cứu và trong thảo luận ở nhóm, ở lớp. Tạo điều kiện để học sinh nói nhiều hơn ở nhóm, ở lớp.
c. Về tình cảm, thái độ:
- Học sinh bước đầu được làm quen với cách học tập mới, cá nhân độc lập suy nghĩ làm việc theo nhóm, tranh luận ở lớp. Không khí học sôi nổi, vui vẻ, thoải mái, hào hứng hơn. Song giáo viên vẫn phải uốn nắn đưa vào nề nếp.
- Yêu cầu học sinh trung thực, tỷ mỉ, cẩn thận trong khi làm việc cá nhân. Khuyến khích học sinh mạnh dạn nêu ý kiến của mình, không dựa dẫm vào bạn. Có tinh thần cộng tác phối hợp với các bạn trong hoạt động chung của nhóm. Phân công mỗi người một việc, mỗi lần một người trình bày ý kiến của tổ, biết nghe ý kiến của bạn, thảo luận một cách dân chủ. Biết kiềm chế mình, trao đổi trong nhóm đủ nghe không gây ồn ào ảnh hưởng đến toàn lớp.
2. Tổ chức học sinh học tập chiếm lĩnh tri thức.
Để tích cực hoá hoạt động học tập của HS, ngoài hình thức tổ chức học toàn lớp như hiện nay, nên tăng cường tổ chức cho HS học tập cá nhân và học tập theo nhóm ngay tại lớp.
*Hình thức học tập cá nhân:
Hình thức học tập cá nhân là hình thức học tập cơ bản nhất vì nó tạo điều kiện cho mỗi HS trong lớp bộc lộ khả năng tự học của mình (được tự nghĩ, được tự làm việc mộtcách tích cực) nhằm đạt tới mục tiêu học tập. Một trong những hình thức tăng cường hoạt động đọc lập của HS trên lớp là sử dụng phiếu học tập.
* Hình thức làm việc theo nhóm, cụ thể là:
+Giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm: Giới thiệu chủ đề chung, nhiệm vụ chung, xác định nhiệm vụ của các nhóm, chia nhóm
+Làm việc theo nhóm: Sắp xếp chỗ làm việc của nhóm, thảo luận kế hoạch, phân công công việc, thực hiện nhiệm vụ của từng thành viên trong nhóm, trao đổi ý kiến, tập hợp những ý kiến của nhóm trong việc thực hiện nhiệm vụ, 
+Trình bày kết quả làm việc của nhóm: Đại diện của mỗi nhóm cử người đại diện nhóm phát biểu ...
+Nhắc nhở các thành viên hoàn thành nhiệm vụ cá nhân và nhiệm vụ chung của nhóm.
+ Sử dụng rộng rãi có hiệu quả hình thức làm việc theo nhóm ở lớp nhằm: 
-Tạo điều kiện khuyến khích học sinh làm việc tự lực.
-Tạo điều kiện, không khí thuận lợi để mỗi học sinh phát biểu ý kiến cá nhân, phát huy sáng tạo rèn luyện ngôn ngữ.
+ Rèn luyện thói quen phân công, hợp tác giúp đỡ nhau trong hoạt động tập thể, trong cộng đồng: Vừa tự do nêu ý kiến riêng (dù chưa được đầy đủ, chính xác). Biết tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình, vừa biết lắng nghe ý kiến của bạn. Nhờ có ý kiến của bạn trong nhóm mà sửa lại ý kiến sai của mình và gợi ý cho mình những suy nghĩ mới.
*Về câu hỏi 
Các câu hỏi của giáo viên đưa ra để hướng dẫn, gợi ý cho HS phải có sự lựa chọn, tinh giản và đảm bảo:
+ Phát triển trí tuệ của học sinh.
+ Phát triển ngôn ngữ cho học sinh.
+ Phát triển tư duy logic, tư duy vật lý và tư duy khoa học kỹ thuật.
-Ví dụ : 
Nghiên cứu ma sát cần giải thích cho học sinh rằng: Trong những trường hợp này ma sát có hại, nhưng những trường hợp khác lại có lợi.
+ Phát triển năng lực sáng tạo của học sinh.
3. Xác định được tình huống có vấn đề
 Các kiểu tình huống có vấn đề 
* Tình thế lựa chọn.
* Tình thế bất ngờ 
* Tình thế bế tắc
* Tình thế không phù hợp.
* Tình thế phán xét
* Tình thế đối lập.
4. Tiến trình giải quyết vấn đề
Tiến trình giải quyết vấn đề khi xây dựng, vận dụng tri thức vật lý bằng sơ đồ sau "Đề xuất vấn đề - suy đoán giải pháp và khảo sát lý thuyết hoặc thực nghiệm - kiểm tra, vận dụng kết quả" 
5. Hoạt động dạy học dựa trên giải quyết vấn đề
* Giới thiệu vấn đề: Bằng câu chuyện thực tế có liên quan đến kiến thức bài học
* Tìm hiểu các kiến thức có liên quan: Định hướng nguồn thông tin
* Giải quyết vấn đề: Hệ thống hoá kiến thức mới nhận được, kiểm nghiệm ý tưởng, giả thuyết
* Trình bày kết quả: Viết báo cáo kết luận, thể chế hoá kiến thức
VI. YÊU CẦU ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN
1. Phấn đấu làm đầy đủ, thành công các thí nghiệm chứng minh trên lớp.
2. Xây dựng một hệ thống câu hỏi logic, chất lượng và phải biết hướng dẫn học sinh quan sát hiện tượng, phân tích kết quả thí nghiệm, vận dụng các kiến thức có liên quan... để đi đến tri thức mới, song phải mang tính phát triển trí tuệ và năng lực sáng tạo của học sinh.
3. Tăng cường luyện tập độc lập của học sinh trên lớp.
4. Sử dụng "phiếu học tập" cho mỗi học sinh.
5. Thực hiện tốt hoạt động học tập theo nhóm.
VII. KẾT LUẬN:
 Sử dụng thành công phương pháp dạy học dựa trên giải quyết vấn đề sẽ giúp HS học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ, mà còn biết vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống và ngược lại.
Trên đây là những giải pháp của nhóm vật lý tổ TN 1 Trường THCS Chu Văn An trong việc góp phần thực hiện phương pháp “Dạy học dựa trên giải quyết vấn đề”. Chuyên đề vẫn đang còn trong giai đoạn thử nghiệm, học tập rút kinh nghiệm do đó không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của đồng nghiệp, bộ phận chuyên môn của tổ, trường và phòng GD ĐT để đề tài được hoàn thiện hơn.
	Tam Xuân 2, ngày 15 tháng 10 năm 2014
	 NHÓM VẬT LÝ – TỔ TỰ NHIÊN 1
 TRƯỜNG THCS CHU VĂN AN	
 VIII. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
-Môdun dạy học dựa trên giải quyết vấn đề - Tác giả PGS-TS Nguyễn Văn Khôi; PGS-TS Lê Huy Hoàng; ThS Vũ Thị Mai Anh – NXB ĐHSP
-Đổi mới PPDH, chương trình và SGK- Tác giả Trần Bá Hoành – NXB ĐHSP
-Một số vấn đề đổi mới PPDH môn Vật lý THCS – Tác giả Đoàn Duy Hinh (chủ biên) – NXB GD
-SGK, SGV Vật lý các khối lớp 6, 7, 8, 9

File đính kèm:

  • docCHUYEN DE Day hoc dua tren giai quyet van de.doc