Đề tài Những phát minh bất ngờ trong vật lý

Từ xa xưa, con người mang một cảm giác thần bí, sợ hãi đối với sấm sét. Mọi người cho rằng: sấm sét là sự trừng phạt của Thượng đế hay các đấng thần linh đối với kẻ có tội.

Vào thế kỷ 18, một nhà khoa học Mỹ Phran-klin (Benjamin Phlanklin) lại không tin vào điều đó. Qua sự quan sát và phân tích, ông suy đoán rằng :”sấm sét chẳng qua chỉ là một hiện tượng điện’. Nhưng làm thế nào để chứng thực được suy luận đó?

Một hôm, ông đang ngồi trước của sổ suy nghĩ về vấn đề này. Lúc đó, Phran-klin thấy thằng con Uy-li-am đang cầm dây diều chạy vụt qua cửa sổ. Mắt phran –klin chợt sáng lên, ông chợt nghĩ: nếu khi trời đang sấm sét mưa giông, đưa một chiếc diều lên không trung, rất có thể chúng thực được quan điểm của mình. Nếu sấm sét là điện nó sẽ được truyền từ chiếc diều xuống theo dây. Đương nhiên việc đó rất nguy hiểm vì sấm sét đã đánh chết không biết bao người rồi. Nhưng vì chân lý, phran-klin quyết định không sợ.

 

doc27 trang | Chia sẻ: dung89st | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Những phát minh bất ngờ trong vật lý, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào biết. Lúc đó có một vị đại thần đề nghị:
“Thưa bệ hạ hãy cho triệu mời Archimede đến kiểm tra”
“Ừ, được”, nhà vua đồng ý với đề nghị.
Archimede được mời vào cung vua, vua nói với Archimede.
“Archimede ta cần ngươi kiểm tra xem trong chiếc vương này đã bị trộn vào bao nhiêu vàng, nhưng không được làm hỏng vương niệm”.
	Archimede nhận lệnh nhà vua giao cho, đem vương niệm về nhà tìm cách kiểm tra. Nhiều ngày trôi qua mà ông vẫn chưa có cách gì để kiểm tra. Archimede lo lắng suy nghĩ, quên cả ăn, mất cả ngủ. Hôm đó, ông vào buồn tắm, ngâm mình vảo bồn nước nhìn thấy hiện tượng có nước tràn ra ngoài, trong đầu liền lóe lên biện pháp giải quyết ra vấn đề, vì quá mừng rỡ ông quên cả việc mặc quần áo nhảy vọt ra khỏi bồn tắm, vừa chay vừa la:
 “Ơ rê ca! ơ rê ca!!!!” ( tìm thấy rồi, tìm thấy rồi ), mọi người chung quanh đều cho là Archimede bị điên, thì ra trong khi tắm Archimede phát hiện ra rằng: “ trọng lượng của vật thể bị giảm đi khi ngậm trong nước đúng bằng trọng lượng nước mà nó chiếm chỗ”. Trên cơ cở nguyên lý này ông đã tìm thấy biện pháp kiểm tra chiếc vương niệm. Ông bỏ chiếc vương niệm vào trong một chậu nước đầy, hứng lấy số nước tràn ra rồi đem cân. Tiếp đó, ông lấy vàng rồng có cùng trọng lượng với vương niệm lại bỏ vào chậu nước đầy đó hứng lấy nước tràn ra và đem cân, kết quả nước tràn ra khi bỏ vàng vào chậu ít hơn là nước tràn ra khi bỏ vương niệm vào chậu, vì tỉ trọng giữa vàng và bạc không bằng nhau vì vậy ông xác định được chiếc vương niệm đã bị trộn bạc vào. Trước chứng cứ đó, người thợ kim hoàn đành phải nhận tội. Từ đó, nhà vua càng thêm tin tưởng và tôn trọng Archimede: “bất luận Archimede nói gì đều phải tin tưởng ông ấy”.
	Về sau người ta gọi nguyên lý do Archimede xác định được là định luật Archimede.
	Lực đẩy Archimede
Đúng vậy, bất ngờ dẫn đến bất ngờ. Câu chuyện sau đây sẽ nói lên một bất ngờ thú vị khác.
VII. ISAAC NEWTON:
1. Sơ lược về tiểu sử và thành tựu của Isaac newton:	 
	ISAAC NEWTON
(1643-1727)
Newton là một nhà khoa học người Anh, 19 tuổi vào ĐH Cambirdge.
Hiện tượng tán sắc ánh sáng
Newton có rất nhiều thành tựu cống hiến cho khoa học. Nhưng thành tựu lớn nhất và trở thành bất tử là 3 định luật Newton và định luật vạn vật hấp dẫn.
2.Khơi gợi từ quả táo rơi:
Tại sao mọi vật ném lên dù theo hướng nào cũng có xu hướng là rơi trở lại quả đất. Đó là nhờ vào định luật Vạn vật hấp dẫn của Newton. Khơi gợi nào đã làm ông tìm ra định luật đó? Câu chuyện như sau:
Nhà vật lý nước Anh Isaac Newton rất thích đọc sách, luôn ưa động não suy nghĩ. Năm 21 tuổi, Newton thi đỗ trường Đại học Cam-brit-giơ, sau khi tốt nghiệp Newton được giữ lại làm việc ở trường. Năm 26, Newton đảm nhận chức giáo sư trường Đại học cam-brit-giơ.
Mùa hè năm 1665, nước Anh rơi vào một trận đại dịch, để tránh lây lan truyền dịch, các trường đại học đều tạm thời đình khóa. Newton trở về quê-một thôn nhỏ thuộc quận Rin-ghen nước Anh.
Một hôm, Newton ngồi trên một cái bãi bằng phẳng, mở sách cặm cụi đọc. Bỗng một làn gió nhẹ thoảng qua:”bộp”,”bộp” hai quả táo rơi xuống suýt nữa bộp lên đầu Newton.
“Ủa !thế là thế nào nhỉ?”. Đầu óc ưa hoạt động của Newton lập tức bị hiện tượng đó thu hút. ”Tại sao quả táo cứ rơi xuống đất mà không rơi lên trời?”. Câu hỏi đã làm Newton đắm chìm trong suy tưởng.
Để tìm hiểu nguyên nhân tại sao quả táo rơi xuống đất mà không “rơi” lên trời. Newton đã suy nghĩ sớm chiều và cả trong giấc ngủ. Có bữa, Newton quá chăm chú tìm tư liệu mà ông đã lơ đãng tưởng đồng hồ là trứng nên đem bỏ vào luộc.
Sau khi trở lại trường đại học, Newton vừa dạy học vừa suy nghĩ về vấn đề tại sao quả táo lại rơi xuống đất, để lý giải về vấn đề đó Newton đã đọc:”bàn về sự vô hạn, vũ trụ và thế giới “ của Bru-nô,” thiên văn học mới của Keppler....
Ngoài ra còn học thêm toán cao cấp và không ngừng nâng cao tính toán.
Có hôm Newton mời bạn đến nhà ăn cơm, người bạn đúng giờ đến nhà, còn Newton vẫn mãi mê trong phòng thí nghiệm, người bạn đợi đến nửa giờ bụng đói ăn hết nửa con gà đã nấu đang đặt trên bàn, xương đặt lại chỗ cũ. Khi bạn ăn xong ra về, Newton mới đến phòng ăn, nhìn thấy xương gà trên bàn, ông ngạc nhiên lẩm bẩm:
-Hóa ra mình đã ăn rồi!
Và lại tiếp tục vào làm việc.
Newton đã học tập và làm việc say sưa quên mình như thế. Cuối cùng, ông tìm ra hàng loạt định luật về vật lý học, trong đó có định luật: “Vạn vật hấp dẫn”.
Đây là cây táo của Newton trên 350 tuổi (nó đang chết dần vì môi trường)
Tiếp theo chúng tôi muốn giới thiệu đến các bạn một nhà khoa học đã đóng góp những công trình của mình làm giàu cho thư viện vật lý của chúng ta.
VIII. PHRAN KLIN
1.Sơ lược về tiểu sử và thành tựu của Phran klin:
PhranKlin (17/01/1706 __17/04/1790)
PhranKlin sinh ra ở Boston, Masschusetts. Ông là một trong những người thành lập nên đất nước nổi tiếng nhất Hoa Kỳ, là nhà khoa học, tác giả, một chính trị gia nổi tiếng.
Ông có thành tựu về:
+Lý thuyết điện học .
+Đàn Armonica.
+Kính hai tròng.
+ Bếp lò Phranklin.
+Tác phẩm Poor Richard’s Almanac.
+Nhà lãnh đạo của thời đại Khai Sáng.
2. Lý thuyết điện học ra đời như thế nào?
Từ xa xưa, con người mang một cảm giác thần bí, sợ hãi đối với sấm sét. Mọi người cho rằng: sấm sét là sự trừng phạt của Thượng đế hay các đấng thần linh đối với kẻ có tội.
Vào thế kỷ 18, một nhà khoa học Mỹ Phran-klin (Benjamin Phlanklin) lại không tin vào điều đó. Qua sự quan sát và phân tích, ông suy đoán rằng :”sấm sét chẳng qua chỉ là một hiện tượng điện’. Nhưng làm thế nào để chứng thực được suy luận đó?
Một hôm, ông đang ngồi trước của sổ suy nghĩ về vấn đề này. Lúc đó, Phran-klin thấy thằng con Uy-li-am đang cầm dây diều chạy vụt qua cửa sổ. Mắt phran –klin chợt sáng lên, ông chợt nghĩ: nếu khi trời đang sấm sét mưa giông, đưa một chiếc diều lên không trung, rất có thể chúng thực được quan điểm của mình. Nếu sấm sét là điện nó sẽ được truyền từ chiếc diều xuống theo dây. Đương nhiên việc đó rất nguy hiểm vì sấm sét đã đánh chết không biết bao người rồi. Nhưng vì chân lý, phran-klin quyết định không sợ.
Tháng 7 năm 1752, đó là mùa có nhiều mưa. Một buổi chiều bầu trời đen kịt, mưa giông kéo đến. Phran-klin cùng con trai Uy-li-am mang theo một chiếc dù lớn làm bằng vải buồm và một chai lây-đen đến một khoảnh đất rộng ở ngoại ô.
Chiếc diều có hình quả trám bằng vải buồm trắng để dễ quan sát. Trên thân diều có lắp dây kim loại dễ “hấp thu” điện.
Từ xa đã có tiếng sấm ầm ĩ truyền lại. Mỗi tiếng sấm giống như tiếng trống trận vang rền trong tim phran-klin. Hai cha con Phran-klin thả diều lên, chiếc diều càng bay càng cao như đã xuyên thẳng vào tầng mây thấp.
Đến lúc mưa như trút nước, Phran-klin tay cầm chặt đầu dây diều cùng với con trai chạy núp vào trong túp liều ở giữa cánh đồng. Lúc đó quần áo của họ đã bị ướt sũng. Phran-klin móc ra chùm chìa khóa cột vào đầu dây diều.
Đột nhiên sét chớp ngang, những tua dây rũ xuống ngoài thân diều đều bị căng thẳng ra như bị một lực gì vô hình tác động, Phran –klin cảm thấy cánh tay tê buốt. Đúng lúc đó, chùm chìa khóa tóc ra những tia lửa điện. “Ái chà!” phran - klin kêu lên. Một niềm vui mạnh mẽ lan tỏa, ông kêu lên :"đúng là nó, đúng là sét, sét đã ở trong tay ta!”
Phran - klin không quản nguy hiểm đã dùng một khăn mùi xoa cột một đầu dây ướt đẫm, để cho chùm chìa khóa trực tiếp nạp điện vào chai lây-đen. Uy-li-am nhìn thấy tia lửa điện lóe sáng trong bình, vui mừng khôn tả. Dự đoán đã được chứng thực đích thị sấm sét là một hiện tượng phóng điện, nó hoàn toàn giống với tia lửa điện trong phòng thí nghiệm. Sau đó, Phran-klin thu được một thành công lớn với lý thuyết điện học của mình.
 	Cột thu lôi do Phran - klin chế tạo 	Các nhà cao tầng dùng cột thu lôi để chống sét
Ngày nay, chúng ta có rất nhiều nguồn điện như: pin tiểu, pin đại, pin Volta, acquy,Thế các bạn có biết pin Volta do ai phát minh ra không? 
Năm 1986, nhà khoa học Ý: Gan-va-ni, trong một trường hợp ngẫu nhiên phát hiện được chiếc đùi ếch được treo bằng một kim loại đến gần bản tích điện thì sinh ra co giật.
Phát hiện này của Gan-va-ni đã gây xôn xao trong giới học thuật Châu Âu lúc bấy giờ. Mọi người đều cảm thấy thú vị vì phát hiện mới mẻ này. Nhiều người vừa đọc kỹ bài viết của Gan-va-ni, vừa làm lại thí nghiệm và càng tin vào thí nghiệm và càng tin vào luận đoán: "điện động vật”. Nhưng có một nhà vật lý Ý khác, sau khi nghiên cứu kỹ, tỏ ra nghi ngờ luận đoán của Gan-va-ni, đó là giáo sư vật lý Alexandro Volta.
IX. ALESSANDRO VOLTA
1. Sơ lược về tiểu sử của Alessandro Volta:	
	Alessandro Volta
(1745-1827)
- Ông sáng lập ra học thuyết về điện năm 1800 và tạo nên nguồn điện đầu tiên (được gọi là pin Volta).
- Là một nhà khoa học người Ý, ông vừa giỏi vật lý vừa là nhà sinh học.
2. Cột Volta ra đời:
Volta là nhà vật lý nghiên cứu về điện học, qua rất nhiều thí nghiệm,ông phát hiện rằng đùi ếch bị co giật không phải là do dòng điện sinh ra trong bản thân con vật mà là do dòng điện sinh ra khi kim loại khác nhau cắm vào đùi ếch tiếp xúc; chính nó làm cho đùi ếch co giật.
Sau đó Volta dốc toàn lực nghiên cứu về vấn đề này. Ông thậm chí thí nghiệm ngay trên cơ thể của mình. Hôm đó,Volta làm thí nghiệm trên chính mình, các trợ thủ đang làm việc chẩn bị.
Thí nghiệm bắt đầu,Vôn-ta để cho trợ lý đặt một tấm thiết và một đồng bạc trắng lên trên lưỡi rồi dùng dây kim loại nối liền chúng với nhau. Đột nhiên Vôn-ta “phì” một tiếng, phun hết những đồ trong miệng ra bảo trợ lý ghi chép lại hiện tượng: Là vị axit nhưng khi đổi vị trí hai kim loại thì lại là vị kiềm, qua lần thí nghiệm này Volta tin rằng: hai kim loại khác nhau, trong điều kiện nhất định, có thể sinh ra dòng điện.
Đây là mô hình thí nghệm của Volta.
Tìm tới khoa học là rất gian khổ, kết quả của nó là làm cho nền nhân loại văn minh và tiến bộ. Bằng sự lao động cần cù thông minh, cuối cùng Vôn-ta đã phát minh thiết bị đầu tiên trên thế giới có thể tạo ra dòng điện ổn định và duy trì nó. Thiết bị đó về sau được gọi là nguồn “pin Vôn-ta”. Nó mở ra cục diện mới cho việc nghiên cứu điện học.
Với sự xuất hiện của nguồn điện, nhiều loại máy móc dùng điện đã dựa trên đó mà ra đời. Máy điện báo cũng thế. Có lẽ sẽ có người hỏi họa sĩ có liên quan gì đến máy điện báo? 
Thế mà, thực tế lại là, để cho chiếc máy ra đời và nhanh chóng sử dụng vào thực tế.
X. SAMUEL MORSE
1. Sơ lược về tiểu sử của Samuel morse:
SAMUEL MORSE
(1791-1872 )
-Là nhà họa sĩ(nghệ thuật điêu khắc).
-Năm 1842 ông tạo ra bảng tín hiệu đầu tiên.
-Năm 1844 ông gửi bức điện báo dầu tiên.
2. Tín hiệu Morse:
Vậy các bạn có từng thắc mắc nguyên nhân nào đã thúc đẩy ông từ một nhà họa sĩ trở thành một nhà phát minh không?
Đó là một buổi chiều mùa thu 1832, trên chiếc tàu thủy đi từ Pháp sang Mỹ Morse thật may mắn khi nghe bài diễn thuyết của một chàng trai bác sĩ người Mỹ tên là Giắc-xơn về năng lực kỳ diệu của sắt điện từ.
Moocxo trở về buồng nghỉ của mình những ý nghĩ cứ ào ạt xuất hiện, không thể nào ngủ được. Ông thầm hạ quyết tâm: " ta nhất định phải tìm cho ra hiện tượng kỳ diệu này, con đường ứng dụng trong thực tế, để cho dòng điện phục vụ nhân loại". Trong khoảnh khắc đó, lòng hiếu kì mãnh liệt đã chuyển hóa thành một lòng trách nhiệm đầy đủ. 
Về đến New York, Morse gác bỏ sự nghiệp hội họa mà mình yêu thích và cắm đầu nghiên cứu máy điện báo. Ông vốn là nhà họa sĩ, kiến thức về điện rất ít nên khó khăn lại chồng chất khó khăn. Ba năm ròng rã qua đi, tiền nong cạn kiệt. Mà hình bóng chiếc máy vẫn chưa thấy đâu.
Cực chẳng đã Morse đành phải trở lại nghề cũ, nhưng hình bóng chiếc máy điện báo vẫn nguyên vẹn nằm đâu đó trong lòng ông. ông dồn từng đồng xu kiếm được để chi phí cho những nghiên cứu về máy điện báo. Cứ kiên trì như vậy, lại 3 năm nữa trôi qua cuối cùng ông đã chế thử thành công chiếc máy điện báo.
Trớ trêu thay trời không thương lòng người, không có ai thông hiểu ý nguyện của Morse, không có ai chịu bỏ tiền chế tạo cái của khác đời đó. Nhưng khó khăn không thể làm ngã lòng người, ông vừa dạy học vừa dạy vẽ để kiếm sống, vừa tiếp tục cải tiến máy điện báo.
Năm 1842, với nguồn viện trợ của Quốc Hội Mỹ cùng lòng hăng hái hừng hực, Morse thi công hoàn thành đường dây điện báo từ Oasinton đến thành phố Morse trong một thời gian rất ngắn.
Ngày 24 tháng 5 năm 1844, Morse xơ vô cùng xúc động trình diễn chiếc máy điện báo do ông phát minh. Trước mặt các quan khách, âm thanh “tích tíchtà tà” do Morse nhấn ma-níp một cách điêu luyện được truyền tới Quốc Hội Mỹ cách đó 40 dặm.
Morse đã phát đi điện báo đường dài đầu tiên của nhân loại, bức điện báo chỉ có câu: "thượng đế sáng tạo ra biết bao kỳ tích ”.
The first Telegraph
What hath God wrought ?
	Đây là bức điện báo đầu tiên.
Hệ thống mã do ông phát minh (ngày nay được gọi là mã tín hiệu Morse) 
Tháp Morse
Từ đó, tên tuổi Morse vang lừng khắp nơi, ông trở thành người anh hùng trong mắt mọi người.
Có ý kiến đánh giá rằng: "Trong lịch sử hóa học, ông dùng một chủ đề đơn giản mà đã gọi ra được cả thế giới". Vậy các bạn có biết ông là ai không?.
XI. MENDELEEV: 
1. Sơ lược tiểu sử và thành tựu của Mendeleev:
	MENDELEEV (1834 - 1907)
Ä Tên đầy đủ của ông là Dmitri Ivanovich Mendeleev. 
+Menđêlêep là nhà hóa học. 
+Là nhà hoạt động xã hội nổi tiếng nước Nga.
+Là giảng viên của trường Đại học Pêtécbua chuyên ngành hóa học.
+Người sau mệnh danh ông là "thần cửa của khoa học Nga" (door - god).
Ä Cống hiến xuất sắc nhất của Menđêlêep là phát hiện ra quy luật biến hóa mang tính chu kỳ của các nguyên tố hóa học gọi tắt là quy luật tuần hoàn các nguyên tố.
2. “Nguyên lý hóa học” được ông tìm ra như thế nào?
Khi Mendeleev viết "Nguyên lý hóa học", ông nghĩ đến lúc này trong số các nguyên tố đã phát hiện trên thế giới là 63 nguyên tố, giữa chúng nhất định có những quy luật biến hóa thống nhất, vì rằng tất cả các sự vật điều có liên quan với nhau. Để phát hiện quy luật này, ông đã đăng ký 63 nguyên tố này vào 63 chiếc thẻ. Trên thẻ ông viết tên, nguyên tử lượng, tính chất hóa học của nguyên tố. Ông dùng 63 chiếc thẻ mang tên 63 nguyên tố này xếp đi xếp lại trên bàn. Bỗng nhiên một hôm, ông phát hiện ra rằng nếu xếp các nguyên tố này theo sự lớn nhỏ của nguyên tử lượng thì sẽ xuất hiện sự biến hóa mang tính liên tục rất kỳ lạ, nó giống như một bản nhạc kỳ diệu vậy. Mendeleev không giấu nổi niềm vui, ông tin tưởng chắc chắn rằng loại quy luật này chứng tỏ quan hệ của vạn vật trên thế giới này là tất nhiên và có luật tuần hoàn của chúng.
Mendeleev như đã có chìa khóa mở cánh cửa của mê cung phát hiện trên những bí mật của cả cung điện. Ông đã sắp xếp những nguyên tố thành một bảng tuần hoàn, trong đó có những nguyên tố vẫn phải để trống. Ông công bố tác phẩm của mình, kiên trì chờ đợi kết quả kiểm nghiệm của các nhà khoa học ở khắp nơi trên thế giới đối với quy luật tuần hoàn của các nguyên tố. Tuy nhiên suốt 4 năm, ông không phát hiện thêm được nguyên tố mới nào.
Năm 1875, Viện Hàn lâm khoa học Pari nhận được thư của một nhà khoa học, trong thư nói ông đã tạo ra được một nguyên tố mới trong quặng kẽm trắng, ông gọi nguyên tố là "Gali". Dưới sự kiểm định của Mendeleev bởi công thức: "4 + ( ) = 10".
Bốn năm sau, Thụy Điển phát hiện một loại nguyên tố mới khác, có người gọi nó là "Scanđi".
Ngày 19/8/1887 là ngày Nhật thực, một cơ hội hiếm có, lúc đó ông tuổi đã ngoài 50 nhưng vẫn quyết định bay vào không trung một mình để không bỏ lỡ thời cơ. Nhật thực toàn phần lần trước cách đây 19 năm, nhà thiên văn học người Pháp dùng kính phân tích ánh sáng nhìn thẳng lên mặt trời Nhật thực, thấy xuất hiện một vạch sáng màu vàng. Mọi người đều đoán đó là nguyên tố mới gọi là Hêli.
`	Bảng tuần hoàn nhanh chóng được dịch thành nhiều thứ tiếng và truyền bá đi khắp nơi trên trái đất. Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học (còn gọi là bảng tuần hoàn Mendeleev) trên 100 năm qua đã là chìa khóa dẫn đến việc phát minh nhiều nguyên tố hóa học mới.
	Bảng tuần hoàn hóa học ngày nay.
Cũng giống như trang phục, âm nhạc cũng là thức ăn tinh thần không thể thiếu của mỗi con người. Vậy các bạn có biết ai đã sáng tạo ra chiếc máy hát đầu tiên và được mệnh danh là “phù thủy Menlopark” không?
XII. THOMAS EDISON
1. Sơ lược về tiểu sử và thành tựu của Thomas Edison:
Thomas Edison
(1847-1931)
Là nhà phát minh, thương nhân.
Ông được mệnh danh là “phù thủy Menlo Park”. Những phát minh của ông gây ảnh hưởng lớn đến thế kỷ XX, nổi tiếng nhất là bóng đèn.
2.Vua phát minh và bóng đèn điện
Nước Mỹ có một ông vua phát minh tên là Thomas Edison. Cả đời ông có nhiều phát minh lớn nhỏ.bóng đèn dây tóc mà ta đang dùng là phát minh của ông.trước khi đèn điện ra đời người ta đã sơ bộ nắm được những tri thức về điện. Ở Anh một nhà hóa học đã dùng nhiều chiếc đèn pin và hai thanh cacbon chế ra cây đèn huỳnh quang đầu tiên trên thế giới, song ánh sáng của nó quá gay gắt, chỉ có thể lắp ở đường phố hoặc trên quảng trường và chỉ sáng vài tiếng đồng hồ là tắt ngay.Thời đó nói chung mọi nhà đều dùng đèn dầu lửa hoặc đèn khí than (bunsen). Edison đã nghĩ: " nếu mọi nhà đều có đèn điện để dùng thì hay biết bao!”
Tháng 9 năm 1878 bắt đầu tiến công vào thành lũy chiếu sáng bằng điện.
Tin tức lan ra và bắt đầu lan khắp nước Mỹ và lan tràn sang nước Anh làm cổ phiếu khí than sụt giảm nghiêm trọng
Edison bắt đầu thực hiện ráo riết những thí nghiệm khoa học.Trước tiên là thí nghiệm đèn điện sáng trắng. Nguyên lý của loại đèn này là lắp một mẫu nhỏ vật liệu chịu nhiệt vào trong bóng đèn thủy tinh, đấu vào nguồn điện được nung nóng tới mức sáng trắng. Dựa theo nguyên lý này Edison cho rằng muốn làm tốt thí nghiệm, trước tiên phải tìm được một vật liệu chịu nhiệt thích hợp.
Đêm đó Edison ngồi ở bàn làm việc, khều sáng chiếc đèn khí than (bunsen), lấy giấy bút ra và ghi lại tất cả các vật liệu chịu nhiệt mà ông nhớ được, sau cùng đếm tất cả có 1600 loại. Hôm sau ông cho người lo đầy đủ các loại vật liệu này và tiến hành thí nghiệm với từng loại. Đồng thời, ông lại không ngừng về cấu tạo của bóng đèn và không ngừng cải tiến rút khí làm cho bóng đèn thủy tinh đạt tới mức chân không tuyệt đối. Trong thời gian này Edison vắt óc suy nghĩ hết cách này đến cách khác, quên ăn quên ngủ, thử đi thử lại mãi vẫn không đạt kết quả như mong muốn.
Vào ngày mùa hè năm đó Edison vùi đầu làm việc trong phòng thí nghiệm, nóng đến nỗi đầu ông đẫm mồ hôi, tiện tay ông cầm chiếc quạt nan tre phẩy cho mát, bất chợt ông nhìn như dán mắt vào chiếc quạt. Một lát sau, ông lại xé chiếc quạt ra thành từng mảnh vụn, đặt dưới kính hiển vi quan sát tỉ mỉ; xem đi xem lại không nén được sự vui mừng tột độ:
 "Hừ, sao lâu nay mình không nghĩ ra cách dùng sợi than tre nhỉ?”.
Lúc đó, các trợ thủ của Edison cũng đã quay lại, họ cho những nan tre vừa xé vụn vào lửa và đốt cháy thành than, rồi cho những sợi than tre vào bóng thủy tinh,vừa cho thông điện là đèn đã sáng lên, hơn nữ

File đính kèm:

  • docNhung_phat_minh_vat_ly_bat_ngo_20150725_103043.doc