Đề tài Một số kinh nghiệm khi dạy văn bản Nhật dụng

Nhấn mạnh vào hai khía cạnh chính: Trang bị kiến thức và trau dồi tư tưởng, tình cảm thái độ cho học sinh. Nghĩa là qua văn bản, cung cấp và mở rộng hiểu biết cho học sinh về những vấn đề gần gũi, bức thiết đang diễn ra trong đời sống xã hội hiện đại, từ đó tăng cường ý thức công dân đối với cộng đồng.

Ví dụ : Với văn bản "Ca Huế trên sông Hương" trong Ngữ văn 7 thì:

Mục tiêu bài học được xác định như sau

Học sinh hiểu từ văn bản “Ca Huế trên sông Hương”:

- Ca Huế với sự phong phú về nội dung, giàu có về làn điệu, tinh tế trong biểu diễn và thưởng thức là một nét đẹp của văn hoá cố đô Huế, cần được giữ gìn và phát triển.

- Từ đó mở rộng vốn hiểu biết về văn hoá Huế và âm nhạc dân gian các vùng miền, bồi đắp tình yêu đối với xứ Huế và các giá trị văn hoá dân tộc.

-Văn bản nhật dụng có thể được viết ở dạng thuyết minh kết hợp với nghị luận, miêu tả, bộc lộ cảm xúc.

 

doc26 trang | Chia sẻ: dung89st | Lượt xem: 1620 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số kinh nghiệm khi dạy văn bản Nhật dụng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nổi tiếng mà còn nổi tiếng bởi các làn điệu dân ca và âm nhạc cung đình. Ca Huế là một sản phẩm tinh thần đáng trân trọng cần được bảo tồn và phát triển. Từ đó HS có nhu cầu mở rộng hiểu biết dân ca các vùng miền đất nước và củng cô thêm tình yêu đối với truyền thống văn hoá dân tộc.
	 Các văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ văn 8.
	“Thông tin về ngày trái đất năm 2000” là văn bản thuyết minh trình bày về tác hại của bao bì ni lông đối với môi trường và sức khoẻ con người. Đã đến lúc chúng ta phải nhìn nhận lại thói quen dùng bao bì ni lông để có hành động thiết thực bảo vệ môi trường sống của chúng ta bằng cách hưởng ứng lời kêu gọi: “Một ngày không dùng bao bì ni lông”. Thông điệp này chính là nội dung nhật dụng của văn bản “Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000”.
	“Ôn dịch, thuốc lá” là một bài thuyết minh cung cấp cho bạn đọc những tri thức khách quan về tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ và có thể làm suy thoái đạo đức con người. Không dừng ở đó văn bản này còn thể hiện tinh thần trách nhiệm của người viết đối với sức khoẻ cộng đồng khi ông trực tiếp bày tỏ thái độ đối với thuốc lá mà ông gọi là một thứ “ôn dịch”, và kiến nghị “Đã đến lúc mọi người phải đứng lên chống lại, ngăn ngừa nạn ôn dịch này”.
	Tác giả đã sử dụng thủ pháp thuyết minh quen thuộc như: liệt kê, so sánh, lời văn vẫn sử dụng các thuật ngữ khoa học nhưng dễ hiểu do được giải thích cụ thể, kết hợp trong đó là lời bình luận mang sắc thái biểu cảm rõ rệt. Tất cả được viết bằng tri thức và tâm huyết của của một nhà y học nổi tiếng, và điều đó làm nên sức thuyết phục của bài văn này.
	ý nghĩa nhật dụng của văn bản này không chỉ là cảnh báo cho mỗi người về một nạn dịch có sức tàn phá sức khoẻ cộng đồng, gây thành tệ nạn xã hội mà còn góp phần cổ động cho chiến dịch truyền thông chống hút thuốc lá đang diễn ra rộng khắp hiện nay.
	“Bài toán dân số” từ câu chuyện vui về một bài toán cổ liên hệ sang chuyện không vui về việc gia tăng dân số trên trái đất bằng một tính toán lô gic sau: Một bàn cờ có 64 ô, nếu số thóc trong mỗi ô tăng theo cấp số nhân công bội là 2 thì tổng số thóc nhiều tới mức có thể phủ kín bề mặt trái đất => trái đất lúc đầu chỉ có 2 người, nếu loài người cũng tăng theo cấp số nhân ấy thì tổng dân số sẽ đạt ô thứ 30 (năm1995) và ô thứ 31 (năm 2015) => nếu cứ để dân số tăng như thế thì đến một ngày 64 ô của bàn cờ sẽ bị lấp kín và khi đó mỗi người chỉ còn một chỗ ở với diện tích như một hạt thóc trên trái đất.
	Mục đích của sự tính toán này là báo động về nguy cơ bùng nổ và gia tăng dân số của thế giới. Vì thế “Bài toán dân số” được xem là một văn bản nhật dụng phục vụ cho chủ đề “dân số và tương lai của nhân loại”. Bài toán này càng có ý nghĩa thời sự đối với các nước chậm phát triển, trong đó có Việt Nam.
	Về hình thức, “Bài toán dân số” là một văn bản nghị luận sử dụng phương thức lập luận bằng hình thức luận cứ. Nhưng bài nghị luận xã hội này dễ hiểu bởi sự đan cài rất tự nhiên của phương thức tự sự.
	Các văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ văn 9:
	“Phong cách Hồ Chí Minh” là bài viết nhằm trình bày cho bạn đọc hiểu và quý trọng vẻ đẹp của phong cách Bác Hồ. Bài văn có hai phần nội dung. Phần thứ nhất nói về vẻ đẹp trong phong cách văn hoá của Bác, đó là sự kết hợp hài hoà giữa phẩm chất dân tộc và tính nhân loại trong tiếp nhận văn hoá. Phần thứ hai nói về vẻ đẹp trong phong cách sinh hoạt của Bác, đó là sự kết hợp hài hoà giữa bình dị và hiện đại trong nếp sống.
	Nội dung trên được thể hiện trong hình thức thuyết minh kết hợp nghị luận khiến cho sự trình bày các biểu hiện vẻ đẹp phong cách Hồ Chí Minh trở nên sáng rõ cùng tình cảm ngưỡng vọng không che giấu của tác giả.
	Từ nội dung trên, chủ đề nhật dụng cần được khai thác đó là: vấn đề quan hệ giữa hội nhập thế giới và bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, một vấn đề không chỉ có ý nghĩa cập nhật mà còn có ý nghĩa lâu dài thường xuyên của các thế hệ, nhất là lớp trẻ nước ta trong học tập rèn luyện theo phong cách Bác Hồ. 
	"Đấu tranh cho một thế giới hoà bình" là bài viết của nhà văn đã từng đoạt giải Nô- ben văn học (G.Mác-két). ở đây, với hệ thống lập luận sắc sảo, chứng cớ xác thực, cách so sánh tương phản đã giúp tác giả luận giải một cách thuyết phục và rõ ràng về hiểm hoạ hạt nhân đối với nhân loại. Sự tốn kém và tính phi lý của cuộc chạy đua chiến tranh hạt nhân, từ đó kêu gọi hành động để ngăn chặn chiến tranh hạt nhân vì một thế giới hoà bình.
	Chủ đề nhật dụng của văn bản này chính là đấu tranh cho hoà bình, chống chiến tranh để bảo vệ hoà bình. Ngăn chặn và xoá bỏ nguy cơ chiến tranh hạt nhân. Đó là những vấn đề cấp thiết và nóng hổi trong đời sống chính trị của nhân loại và của mỗi dân tộc, mỗi con người.
	“Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em” được trích từ Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em của tổ chức Liên hợp quốc ngày 30/9/1990, chứng tỏ sự quan tâm toàn diện, sâu sắc của cộng đồng quốc tế đối với trẻ em trên toàn thế giới.
	Bản tuyên bố đã đề cập đến thực trạng bất hạnh của cuộc sống trẻ em trên thế giới, về khả năng có thể cải thiện được cuộc sống của chúng, cùng các giải pháp cụ thể. Những nội dung này đã được luận giải một cách hợp lý hợp tình theo yêu cầu nghị luận xã hội nhằm làm rõ quan điểm vì trẻ em của cộng đồng thế giới, nhưng để dễ hiểu, dễ truyền bá đến đại chúng, bản tuyên bố đã trình bày các quan điểm dưới dạng mục và số.
	Các nội dung được thảo trong bản tuyên bố đã toát lên điểm tích cực và nhân đạo của cộng đồng quốc tế (trong đó có Việt Nam) về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em. Đó là ý nghĩa cập nhật cũng như ý nghĩa lâu dài của văn bản này. 
III. Chương 3: Phương pháp nghiên cứu - Kết quả nghiên cứu.
1. Phương pháp nghiên cứu
	Để nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
 Phương pháp quan sát: hình thức chủ yếu của phương pháp này là dự giờ đồng nghiệp từ đó tôi có thể phát hiện ra những ưu nhược điểm trong bài dạy của các đồng nghiệp .
 Phương pháp so sánh: với phương pháp này tôi có thể phân loại, đối chiếu kết quả nghiên cứu.
 Ngoài ra tôi còn sử dụng những phương pháp hỗ trợ khác như: đọc tài liệu, thống kê, thăm dò ý kiến của học sinh, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp.
2. Kết quả nghiên cứu thực tiễn
a/ Vài nét về địa bàn nghiên cứu
	Trường THCS Hồng Dương là một trường có bề dày về truyền thống học tập. Trường có đội ngũ giáo viên khá đông, yêu nghề, có năng lực chuyên môn và dày dặn kinh nghiệm. Đội ngũ giáo viên dạy giỏi cấp huyện, thành phố ở đều các môn. Tổ Ngữ văn của trường gồm có 12 đồng chí, trong đó có đồng chí nhiều năm liền tham gia bồi dưỡng đội tuyển Văn của huyện, đồng chí còn là thành viên trong tổ bộ môn của phòng nên có dịp giao lưu, tập huấn và dự giờ nhiều ở khắp các trường trong huyện cũng như ngoài huyện qua các đợt kiểm tra cũng như chấm thi giáo viên giỏi nên đồng chí có rất nhiều kinh nghiệm đó là đồng chí Nguyễn Khắc Thành - Hiệu trưởng. Ngoài ra còn có đồng chí Nguyễn Khắc Hùng- Tổ trưởng tổ Xã hội, đồng chớ Lương Thị Huệ - Tổ phú là những người có chuyên môn sâu và có nhiều kinh nghiệm. Còn lại các đồng chí trong tổ hầu hết đều là các đồng chí có năng lực, yêu nghề, tâm huyết với nghề. Đó chính là điều kiện thuận lợi đầu tiên giúp tôi có thể trao đổi khi thực hiện đề tài này.
	Trong những năm gần đây, do không ngừng đổi mới về phương pháp quản lí cũng như giảng dạy nên chất lượng giáo dục và học tập của trường ngày càng cao và có uy tín đối với nhân dân trong xã cũng như trong huyện.
	Mục tiêu hiện nay của nhà trường là đào tạo toàn diện nhằm giúp học sinh có chất lượng cao về cả văn hoá và đạo đức.
	Hàng năm số lượng học sinh đạt học sinh giỏi cấp huyện, thành phố của trường ngày một gia tăng, luôn nằm trong tốp các trường dẫn đầu trong toàn huyện. .Song môn Ngữ văn trong những năm gần đõy thành tớch cũn khỏ khiờm tốn, học sinh cú xu hướng học nghiờng hẳn sang cỏc mụn tự nhiờn. Chớnh vỡ vậy càng đũi hỏi những người giỏo viờn dạy Ngữ văn như chỳng tụi phải khụng ngừng trang bị kiến thức, tiếp cận với phương phỏp để làm mới mỡnh trong từng tiết dạy trờn lớp và đú khụng phải là một điều dễ. 
	Mặc dù trường thuộc địa bàn nông thôn, dân cư sống thuần nông đời sống còn gặp nhiều khó khăn. Song việc học của các em được gia đình quan tâm rất chu đáo. 
Tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn còn rất nhiều học sinh chưa có ý thức tự giác trong học tập, mải chơi, bị lôi cuốn vào các trò chơi điện tử làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em.
b/ Thực trạng
	Trong quá trình giảng dạy và dự giờ các đồng nghiệp, tôi nhận thấy một số thực trạng sau:
	+ Giáo viên coi các văn bản này là một thể loại cụ thể giống như truyện, kí 
	+ Giáo viên thuờng chú ý khai thác và bình giá trên nhiều phương diện của sáng tạo nghệ thuật như: cốt truyện, nhân vật, cách kể mà chưa chú trọng đến vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản gần gũi với học sinh.
	+ Quá nhấn mạnh yêu cầu gắn kết tri thức trong văn bản với đời sống cho nên giáo viên chú ý nhiều tới liên hệ thực tế, dẫn đến việc khai thác kiến thức cơ bản chưa đầy đủ.
	+ Vốn kiến thức của giáo viên còn hạn chế, thiếu sự mở rộng .
	+ Giáo viên chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học cũng như các biện pháp tổ chức dạy học nhằm gây hứng thú cho học sinh.
	+ Về phương tiện dạy học mới chỉ dừng lại ở việc dùng bảng phụ, tranh ảnh minh hoạ có một số tiết đã sử dụng CNTT song còn hạn chế. Trong khi đó có một số văn bản nếu học sinh được xem những đoạn băng ghi hình sẽ sinh động hơn rất nhiều. Ví dụ như văn bản “Động Phong Nha”, “ca Huế trên sông Hương”... Nhưng hầu hết giỏo viờn không chú ý đến vấn đề này.
	+ Giáo viên còn có tâm lý phân vân không biết có nên sử dụng phương pháp giảng bình khi dạy những văn bản này không và nếu có thì nên sử dụng ở mức độ như thế nào?
	 Chính vì những lí do trên mà khiến cho giờ dạy tẻ nhạt, không thực sự thu hút gây được sự chú ý của học sinh.
 Kết quả cụ thể trong một giờ dạy văn bản nhật dụng thuộc chương trình Ngữ văn 7 mà tụi đó thực hiện thử ở đầu năm học. Sau khi dạy song ở lớp 7A, tôi có kiểm tra và kết quả cho thấy số bài đạt điểm cao còn rất thấp, trong khi đó số bài rơi vào điểm thấp lại cao cụ thể như sau:
Lớp
sĩ số
Điểm 9->10
Điểm 7-> 8
Điểm 5->6
Điểm 3-> 4
Điểm 0-> 2
Tổng số
%
Tổng số
%
Tổng số
%
Tổng số
%
Tổng số
%
7A
35
0
0
4
11
24
69
6
17
1
3
c/ Đánh giá thực trạng
 Nguyên nhân của thực trạng trên là:
Văn bản nhật dụng mới được đưa vào giảng dạy, số lượng văn bản không nhiều nên giáo viên còn thấy rất mới mẻ, ít có kinh nghiệm, lúng túng về phương pháp.
 GV chưa có kĩ năng sử dụng máy chiếu nên việc mở rộng kiến thức cho các em bằng hình ảnh rất hạn chế. 
Chưa xác định đúng mục tiêu đặc thù của bài học văn bản Nhật dụng.
Chưa có ý thức sưu tầm tư liệu có liên quan đến văn bản như tranh ảnh, văn thơ để bổ sung cho bài học thêm phong phú
d/ Đề xuất biện pháp
	Trước những thực trạng và nguyên nhân trên tôi xin đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy như sau:
 d1. Xác định mục tiêu đặc thù của bài học văn bản nhật dụng
Nhấn mạnh vào hai khía cạnh chính: Trang bị kiến thức và trau dồi tư tưởng, tình cảm thái độ cho học sinh. Nghĩa là qua văn bản, cung cấp và mở rộng hiểu biết cho học sinh về những vấn đề gần gũi, bức thiết đang diễn ra trong đời sống xã hội hiện đại, từ đó tăng cường ý thức công dân đối với cộng đồng.
Ví dụ : Với văn bản "Ca Huế trên sông Hương" trong Ngữ văn 7 thì:
Mục tiêu bài học được xác định như sau
Học sinh hiểu từ văn bản “Ca Huế trên sông Hương”:
- Ca Huế với sự phong phú về nội dung, giàu có về làn điệu, tinh tế trong biểu diễn và thưởng thức là một nét đẹp của văn hoá cố đô Huế, cần được giữ gìn và phát triển.
- Từ đó mở rộng vốn hiểu biết về văn hoá Huế và âm nhạc dân gian các vùng miền, bồi đắp tình yêu đối với xứ Huế và các giá trị văn hoá dân tộc.
-Văn bản nhật dụng có thể được viết ở dạng thuyết minh kết hợp với nghị luận, miêu tả, bộc lộ cảm xúc.
 d2. Chuẩn bị
	 Về kiến thức:
Giáo viên không chỉ xác dịnh đúng mục tiêu kiến thức của văn bản mà còn phải trang bị thêm cho mình những kiến thức mở rộng, hỗ trợ cho bài giảng như thu thập các tư liệu có liên quan đến bài giảng trên các nguồn thông tin đại chúng (phát thanh, truyền hình, mạng Internet, báo chí, sách vở, tranh ảnh, âm nhạc...)
	Ví dụ : Khi dạy bài “Ca Huế trên sông Hương”, giáo viên còn phải tạo thêm nguồn tư liệu bổ sung cho bài học trên các kênh âm nhạc dân gian các vùng miền, các bài hát về Huế, các bài báo và tranh ảnh về Huế. Đồng thời giao cho học sinh sưu tầm tư liệu có liên quan đến nội dung văn bản .
	Về phương tiện dạy học:
	Các phương tiện dạy học truyền thống như: SGK, bảng đen, phấn trắng chưa thể đáp ứng đựơc hết yêu cầu dạy học văn bản nhật dụng. giáo viên có thể chuẩn bị thêm các tư liệu khác như: đĩa nhạc CD, phim ảnh và nếu được thu thập, thiết kế và trình chiếu trên các phương tiện dạy học điện tử sẽ khiến các em hào hứng hơn trong giờ học.
	Ví dụ : Khi thiết kế bài học “Động Phong Nha” được cài đặt thêm các hình ảnh hoặc các đoạn phim ghi hình những đặc sắc của hang động này trên nền nhạc êm ả, mở rộng tới hình ảnh hang động nổi tiếng của Quảng Ninh (như động Thiên Cung - Hạ Long) thì sẽ thu hút sự chú ý của học sinh.
	- Khi thiết kế bài “Ca Huế trên sông Hương” giáo viên cần chuẩn bị đĩa nhạc CD về tiếng hát của các làn điệu dân ca Huế và các làn điệu dân ca đặc sắc trên các miền đất nước( như chèo, dân ca Nam Bộ, dân ca quan họ).
	=> Có thể nói khi dạy học văn bản nhật dụng, giáo viên có nhiều cơ hội hơn cho đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại, nhờ đó mà các bài học văn bản Nhật dụng sẽ khắc phục được tính thông tin tẻ nhạt đơn điệu. Từ đó, hiệu quả dạy học văn bản nhật dụng sẽ tăng lên.
 d3. Phương pháp dạy học
	Dạy học phù hợp với phương thức biểu đạt của mỗi văn bản
	Trong dạy học văn bản, không thể hiểu nội dung tư tưởng văn bản nếu không đọc từ các dấu hiệu hình thức của chúng. Nên dạy học văn bản nhật dụng cũng phải theo nguyên tắc đi từ dấu hiệu hình thức tới khám phá mục đích giao tiếp trong hình thức ấy.
	- Ví dụ: Văn bản “Cuộc chia tay của những con búp bê” được tạo theo phương thức biểu đạt tự sự thì hoạt động dạy học sẽ được tiến hành theo các yếu tố tự sự đặc trưng như: sự việc, nhân vật, lời văn, ngôi kể; từ đó hiểu chủ đề nhật dụng đặt ra trong văn bản này là vấn đề quyền trẻ em trong cuộc sống của gia đình thời hiện đại .
	- Còn khi văn bản được tạo lập bằng phương thức thuyết minh như “Ôn dịch, thuốc lá” thì hoạt động dạy học tương ứng sẽ là tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội dung văn bản từ các dấu hiệu hình thức của bài thuyết minh khoa học như: tiêu đề bài văn (Em hiểu như thế nào về đầu đề "Ôn dịch ,thuốc lá"? Có thể sửa nhan đề này thành " Ôn dịch thuốc lá" hoặc " Thuốc lá là một loại ôn dịch" được không? Vì sao?); vai trò của tác giả trong văn bản thuyết minh ( Đoạn văn nào nói về tác hại của thuốc lá đến sức khoẻ con người? Tác hại này được phân tích trên những chứng cớ nào?Các chứng cớ được nêu có đặc điểm gì? Từ đó cho thấy mức độ tác hại như thế nào của thuốc lá đến sức khoẻ con người? ở đây tri thức nào về tác hại của thuốc lá hoàn toàn mới lạ đối với em?)...
	- Mặc dù các phương thức biểu đạt chủ yếu của văn bản nhật dụng là thuyết minh và nghị luận nhưng các văn bản này thường đan xen các yếu tố của phương thức khác như: tự sự, biểu cảm. Khi đó giáo viên cũng cần chú ý đến yếu tố này.
	- Ví dụ: Văn bản thuyết minh “Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử” có lời văn giàu cảm xúc và hình ảnh thì người dạy sẽ nhấn vào các chi tiết miêu tả và biểu cảm cụ thể như:
	+ Những cuộc chiến tranh nào đã đi qua trên cầu Long Biên?
	+ Việc nhắc lại những câu thơ của Chính Hữu gắn liền với những ngày đầu năm 1947- Ngày trung đoàn Thủ đô vượt cầu Long Biên đi kháng chiến- đã xác nhận ý nghĩa chứng nhân nào của cầu Long Biên?
	+ Số phận của cầu Long Biên trong những năm chống Mĩ được ghi lại như thế nào?
	+ Lời văn miêu tả trong đoạn này có gì đặc biệt?
	+ Từ đó cầu Long Biên đóng vai trò chứng nhân chiến tranh như thế nào?
	+ Tác giả đã chia sẻ tình cảm như thế nào đối với cây cầu chứng nhân này?
	- Văn bản “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” có kết hợp phương thức lập luận với biểu cảm thì người dạy sẽ chú ý phân tích lí lẽ và chứng cớ, từ đó tìm hiểu thái độ của tác giả, ví dụ khi phân tích phần cuối của văn bản: Đấu tranh cho một thế giới hoà bình
	- Phần cuối của văn bản có hai đoạn. Đoạn nào nói về "chúng ta" chống vũ khí hạt nhân? Đoạn nào là thái độ của tác giả về việc này?
 Em hiểu thế nào về " bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống hoà bình ,công bằng" ?
 -ý tưởng của tác giả về việc mở" một nhà băng lưu trữ trí nhớ có thể tồn tại được sau thảm hoạ hạt nhân"bao gồm những thông điệp gì ?
	- Em hiểu gì về thông điệp đó của ông?
	- Giáo viên có thể giảng tóm tắt: 
	- Bản đồng ca ....đó là tiếng nói của công luận thế giới chống chiến tranh, là tiếng nói yêu chuộng hoà bình của nhân dân thế giới.
	- Thông điệp về một cuộc sống đã từng tồn tại trên trái đất và về những kẻ đã xoá bỏ cuộc sống trên trái đất này bằng vũ khí hạt nhân.
	- Tác giả là người yêu chuộng hoà bình, quan tâm sâu sắc đến vũ khí hạt nhân với niềm lo lắng và công phẫn cao độ.
 d4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp đặc trưng của phân môn văn học như: phương pháp đàm thoại, đọc diễn cảm, giảng bình. Trong đó chú trọng nhất phương pháp đàm thoại bằng hệ thống câu hỏi dẫn dắt theo mức độ từ dễ đến khó rồi liên hệ với đời sống. 
Ví dụ : Trong bài “Ca Huế trên sông Hương”(có thể đặt các câu hỏi: Cách biểu diễn thưởng thức ca Huế có gì giống và khác so với dân ca quan họ miền Bắc? Từ tác động của ca Huế, em nghĩ gì về sức mạnh của dân ca nói chung đối với tâm hồn con người?)
	Khi dạy văn bản nhật dụng, giáo viên không nên quá coi trọng phương pháp giảng bình. Bởi bình văn là tỏ lời hay ý đẹp về những điểm sáng thẩm mĩ trong văn chương, đối tượng bình phải là những tác phẩm mang vẻ đẹp văn chương. Theo tôi, một số văn bản giàu chất văn chương như: (Mẹ tôi, Cổng trường mở ra, Ca Huế trên sông Hương, Cuộc chia tay của những con búp bê) giáo viên có thể sử dụng lời bình giảng nhưng không nên đi quá sâu. Còn đối với những văn bản nhật dụng không nhằm cảm thụ văn chương thẩm mĩ (như Bài toán dân số, Thông tin về ngày trái đất năm 2000; Ôn dịch, thuốc lá) thì giáo viên không thể bình phẩm được những vẻ đẹp hình thức nào cũng như những nội dung sâu kín nào trong đó. Do vậy, khi dạy giáo viên cần chú ý điều này để tránh sa vào tình trạng khai thác kĩ lưỡng văn bản mà giảm đi tính chất thực tiễn, gần gũi và cập nhật của văn bản Nhật dụng.
	Mục đích của việc dạy văn bản nhật dụng là giúp học sinh hoà nhập hơn nữa với đời sống xã hội nên giáo viên phải tạo ra không khí giờ học dân chủ, sôi nổi, kích thích sự hào hứng của học sinh.
Ví dụ : khi dạy bài Ca Huế trên sông Hương giáo viên có thể cho học sinh nghe một làn điệu dân ca Huế, cuối giờ có thể tổ chức cho học sinh thi hát các làn điệu dân ca ba miền. Thi sưu tầm vẻ đẹp của văn hoá Huế ...
Kết luận : Như vậy để giờ dạy văn bản nhật dụng đạt kết quả cao, đáp ứng mục tiêu bài học, người giáo viên cần phải đa dạng hoá các biện pháp dạy học, các cách tổ chức dạy học, các phương tiện dạy học theo hướng hiện đại hoá: thu thập, sưu tầm các nguồn tư liệu để minh hoạ và mở rộng kiến thức. Coi trọng đàm thoại cá nhân và nhóm, chú ý tới câu hỏi liên hệ ý nghĩa văn bản với hoạt động thực tiễn của cá nhân và cộng đồng xã hội hiện nay. Sáng tạo trò chơi dạy học đơn giản, nhanh gọn để minh hoạ cho chủ đề của văn bản. Tăng cường phương tiện dạy học điện tử như máy chiếu để gia tăng lượng thông tin trong bài học, tạo không khí dân chủ, hào hứng trong giờ học.
3. Khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp đề xuất
	Tôi đã áp dụng những biện pháp trên thông qua bài dạy thực nghiệm có sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp sau khi dự giờ tại lớp 7A trong một tiết dạy văn bản nhật dụng ở học kì II năm học 2013-2014
 Tiết 114 - Văn bản : CA HUẾ TRấN SễNG HƯƠNG
 - Hà Ánh Minh-
I. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT:
 - Hiểu được vẻ đẹp và ý nghĩa văn húa,

File đính kèm:

  • docskkn_van_7_nam_hoc_20132014_20150726_022346.doc
Giáo án liên quan