Bộ tài liệu dạy thêm môn Ngữ văn Lớp 8 - Nguyễn Anh Văn

Luận điểm 1: Đọc tác phẩm, ta thấy Chị Dậu là một người vợ, một người mẹ giàu tình thương. Trong cơn nguy kịch, chị Dậu đã lay gọi chổng và lìm mọi cách cứu chữa cho chồng. Chị Dậu múc cháo ra bát, lấy quạt quạt cho cháo chóng nguội để chổng “ăn lấy vài húp" vì chổng chị “dã nhịn suông tứ sáng hôm qua đến giờ còn gì.". Tiếng trống, tiếng tù và đã nổi lên. Chị Dậu cất tiếng khẩn khoản, thiết tha mời chổng: “Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột” Nhận xét đánh giá  Lời người đàn bà nhà quê mời chổng ăn cháo lúc hoạn nạn, chứa đựng biết baao tình thương yêu, an ủi vỗ về. Cái cử chỉ của chị Dậu bế cái Tỉu rồi ngồi xuống cạnh chổng “cố ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không" đã biểu lộ sự săn sóc và yêu thương của người vợ đối với người Chồng đang đau ốm, tính mạng đang bị bọn cường hào đe dọa! Bình luận  Nhiều người cho rằng, chị Dậu bán con là không xứng đáng làm mẹ vì dân gian có câu “bán dầu bán mỡ chứ ai nỡ bán con” nhưng chính hành động trong lúc đường cùng ấy là mình chứng cho tình mẫu tử thật hiêng liêng và cả sự thông minh của chị. Có lẽ lúc bán cái Tí, chị đau đớn đứt từng khúc ruột nhưng nếu không bán thì không chỉ con cũng chết đói mà chồng cũng chết vì đòn roi. Hơn nữa, tình cảm của chị dahf cho chồng sâu đậm, sắt son là vậy làm sao có thể nói chị vô cảm với đứa con đứt ruột đẻ ra của mình. Bán con là cách cuối cùng để cứu con của mình.

doc31 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 431 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bộ tài liệu dạy thêm môn Ngữ văn Lớp 8 - Nguyễn Anh Văn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ay gắt trong khoảnh khắc hoàng hôn... Nhận xét đánh giá Æ Nỗi nhớ tiếc ấy là nỗi đau buổn bị tước đoạt mất tự do, cũng là nỗi khát khao tự do. Bình luận Æ Thế Lữ đã sáng tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và nhạc điệu, dào dạt cảm xúc để thể hiện nỗi nhớ rừng của hùm thiêng sa cơ... Một tiếng than như xiết lấy lòng người, khơi 7 gợi và lay tỉnh: 	'Than ói! Thời oanh liệt nay còn dâu?"
Luận điểm 4: Những câu thơ cuối là nỗi nhớ rừng khôn nguôi của con hổ. Đau đón và uất
I hận biết đến bao giờ có thể nguôi? Như một tiếng thở dài ngao ngán:
"Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu".
Hổ "nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già" rồi "uất hận" căm ghét những cảnh "không dời nào thay đổi", tẻ nhạt, vô vị, vô nghĩa "tầm thường, già dôi , nho be:
"Hoa chăm, cỏ xén, lối thẳng, cây trồng;
Dái nước đen giả suối, chẳng thông dòng 
Len dưới nách những mỏ gò thấp kém”.
Uất hận cảnh tù hãm, chán ghét những cảnh vật tầm thường nhỏ be do "lũ người kia ngạo mạn” bày ra, hổ lại nhớ day dứt, nhớ khôn nguôi ''cảnh nước non hùng vĩ'. Nhớ rừng là nhớ vương quốc tự do ngày nào:
"Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị
Nơi thênh thang ta vùng vay ngày xưa”.
Trước thực tại đau đớn, hổ chỉ còn biết thả hồn mình theo "giấc mộng ngàn”. Chúa sơn lâm cất tiếng gọi rừng thiêng với bao nhớ thương bồi hồi, da diết:
"Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!"
"Nhớ rừng” là một trong mười bài thơ hay nhất của "Thơ mới" (1932-1941). Thể thơ tự do, lời thơ đẹp, hình tượng kì vĩ, tráng lệ. Nhạc điệu du dương, cảm xúc "nhớ rừng" dào dạt. Hình tượng con hổ sa cơ, đau đớn uất hận, da diết nhớ rừng được khắc họa sâu sắc, đầy ám ảnh.
Trong hoàn cảnh bài thơ ra đời (1934), tâm trạng tủi nhục, đau đớn, uất hận... của con hổ nhớ rừng đổng điệu với bi kịch của nhân dân ta đang rên xiết trong xích xiềng nô lệ. Nhớ rừng là khao khát sống, khao khát tự do. Bài thơ mang hàm nghĩa như một lời nhắn gửi kín đáo, tha thiết về tình yêu giang sơn đất nước. Tư tưởng lớn nhất của bài thơ là cái giá của tự do. Hình tượng con hổ nhớ rừng là sự thể hiện tuyệt vời tư tưởng vĩ đại ấy.
Phân tích, ình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ "Nhớ rừng” của Thê Lữ
..."Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đáu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn 
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình mình cây xanh nắng gội, 
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
 Đáu những chiều lênh láng máu sau rừng 
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt 
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn dâu?"
Tác phẩm "Mấy vần thờ' đã cắm một cái mốc son chói lọi của nền "Thơ mới” Việt Nam, đã khẳng định vai trò tiên phong của Thế Lữ trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ "Nhớ rừng" in trong tập "Mấy vần thờ', là bài thơ kiệt tác mang tính hàm nghĩa, có hình tượng tráng lệ, nhạc điệu du dương, lôi cuốn hấp dăn. Bài thơ thể hiện tâm trạng nhớ rừng của con hổ bị sa cơ, qua đó nói lên nỗi tủi nhục uất hận bị tù hãm và khát vọng tự do. "Nhớ rừng" gồm có 5 đoạn thơ, mỗi đoạn thơ là một nét tâm trạng của chúa sơn lâm. Đây là đoạn thơ thứ ba:
"Nào (làu nhũng dèm vàng bên bờ suối...
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn dâu?"
Nàm trong cũi sắt. chúa sơn lâm "sống mãi trong lình thương nỗi nhớ...". Nhớ cành rừng thiêng "bóng cả, cây già" nơi hùm thiêng từng "ngự trị". Rồi nhớ đến những kỉ niệm một thời oanh liệt. Nhớ "những dâm vàng bên bờ suối". Nhớ "những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn...". Nhớ "những bình minh cây xanh nắng gội...". Nhớ "những chiểu lênh láng máu sau rửng...". Mõi nỗi nhớ gắn liền với một cảnh vật, một sinh hoạt, một khoảnh khắc thời gian. Cấu trúc đoạn thơ là cấu trúc tứ bình mang vẻ đẹp nghệ thuật cổ điển, có ít nhiều cách tân sáng tạo.
Luận điểm 1: Trước hết là nỗi nhớ khôn nguôi, nhớ suối, nhớ trăng, nhớ những "đêm vàng", nhớ lúc "say mồi" ung dung thỏa thích bên bờ suối:
"Nào dâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?"
Hai chữ "nào đáu" phiếm chỉ, hỏi một kỉ niệm đẹp đã lùi sâu vào quá vãng. Biết bao nhớ tiếc bâng khuâng. Thơ nên họa, cảnh vật đầy màu sắc và ánh trăng. Ánh trăng chan hòa trên dòng suối, "tan" vào nước suối. Hổ say mồi và say trăng. Hình ảnh "đêm vàng bên bờ suối" một ẩn dụ đầy mộng ảo nên thơ. Bức tranh thứ nhất trong bộ tứ bình được Thế Lữ vẽ bằng bút pháp tài hoa gợi lên hình ảnh chúa sơn lâm say mồi trong niềm vui hoan lạc giữa một đêm trăng bên bờ suối.
Luận điểm 2: Bức tranh thứ hai nói lên nỗi nhớ ngẩn ngơ man mác của hổ về những ngày mưa rừng. Hổ ung dung "lặng ngắm" cảnh giang san, một mình ngự trị, xúc động cảm thấy "giang san ta đổi mới". Chữ "đâu" lần thứ hai xuất hiện, biểu lộ nỗi lòng tiếc nuối, ngẩn ngơ. Điệp từ "ta" thể hiện niềm tự hào về những kỉ niệm đẹp thuở "vùng vẫy ngày xưa":
"Đáu những ngày mưa chuyển bổn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?"
Bức tranh thứ hai gợi tả một không gian nghệ thuật hoành tráng của giang san chúa sơn lâm mang tầm vóc "chuyển bốn phương ngàn". Kỉ niệm xưa đang mờ dần theo năm tháng, sao không ngẩn ngơ, sao không nuối tiếc?
Luận điểm 3: Kỉ niệm thứ ba nói về giấc ngủ của hổ trong cảnh bình mình. Vương quốc tràn ngập trong màu xanh và ánh nắng: "bình minh cây xanh nắng gội".
Hổ nằm ngủ trong khúc nhạc rừng tưng bừng của tiếng chim ca:
"Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?"
Bức tranh thứ ba đầy màu sắc và âm thanh. Có màu hổng bình minh, màu vàng nhạt của nắng sớm, màu xanh bát ngát của cây rừng. Có tiếng ca tưng bừng của đàn chim. Còn có nhạc của thơ. Phân tích nghệ thuật Æ Các điệp thanh "bình - minh", "tưng - bừng" hòa thanh với vần lưng "ca - ta" như mở ra một không gian nghệ thuật, một cảnh sác thơ mộng thần tiên. Điệp từ "đâu" với câu hỏi tu lừ cất lên như một lời than nhớ lice, xót xa... Kỉ niệm đẹp ngày xưa, nay còn đâu nữa!
Quá khứ càng đẹp, càng oanh liệt bao nhiêu thì nỗi nhớ tiếc càng đau đáu bấy nhiêu. Xưa là "tung hoành", là "vùng vẫy". Nay là tù hãm, là "nằm dài" trong cũi sắt. Nuối tiếc thời oanh liệt với bao nỗi buồn đau, mãnh hổ sa cơ chỉ còn biết cất lời than:
"Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?"
Đánh giá nội dung Æ Làm nôi bật sự đôi lập, tương phản của hai cảnh tượng, hai thê giới, nhà thơ đã thê hiện nôi bât hoà sâu sắc đối với thực tại và niềm khao khát tự do mãnh liệt. Đó là tâm trạng của nhân vật lãng mạn - con hổ bị giam cầm trong cũi săt, ngao ngán, căm uất vì phải sống trong cảnh tù túng tầm thường, da diêt nhớ thời oanh liệt nơi núi rừng hùng vĩ. Liên hệ với thời đại Æ Đó cũng là tâm trạng của người dân Việt Nam mất nước lúc bây giờ. Con người phải sông trong cảnh nô lệ bị nhục nhằn tù hãm”, cũng “gậm một khôi căm hờn trong cũi săt ’, cũng tiêc nhớ khôn nguôi một “thời oanh liệt” của lịch sử dân tộc, và khao khát được tự do, trở về với “nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa”. Nhưng, ngay trong niềm khao khát ây dường như đã chới với một nỗi tuyệt vọng: “Nơi ta không còn được thấy bao giờ!” Câu thơ thể hiện nỗi nhớ tiếc xót xa của nó thể hiện khát vọng sống tự do. Ý tưởng ấy rất đẹp và giàu ý nghĩa đối với con người Việt Nam gần 70 năm về trước khi phải sống tủi nhục trong vòng nô lệ lầm than. Ý tưởng ấy mở ra nhiều liên tưởng và lay tỉnh.
Đánh giá về nghệ thuật Æ Bài thơ "Nhớ rừng" có giá trị nghệ thuật đặc sắc. Ngôn ngữ thơ giàu hình tượng, màu sắc và âm thanh. Nhạc điệu du dương, trầm bổng. Từ ngữ được sử dụng sắc sảo, đích đáng. Đặc biệt các điệp ngữ "đáu những", "còn đâu", "ta", các câu hỏi tu từ và cảm thán đem đến bao ám ảnh mênh mang.
Cũng là cấu trúc tứ bình nhưng bút pháp của Thế Lữ có nhiều sáng tạo đổi mới. Đâu chỉ có tứ mùa (xuân, hạ, thu, đông), tứ hữu (trúc, mai, lan, cúc), tứ linh (long, lân, quy, phượng), v.v... Bức tranh tứ bình trong "Nhớ rừng" rất đa dạng, sinh động. Có thời gian nghệ thuật: đêm trăng, ngày mưa, bình minh và chiều tà. Có không gian nghệ thuật: suối và trăng, giang san và bốn phương ngàn, cây xanh nắng gội và tiếng chim ca "lênh lánh máu", sau rừng và mảnh mặt trời gay gắt. Có tâm trạng nghệ thuật, bao trùm ìà nỗi nhớ nuối tiếc một thời oanh liệt xa xưa. Hổ lúc thì "say mồi dửng uống ánh trăng tan" bên bờ suối, lúc thì trầm tư "lặng ngắm cảnh giang san" qua màn mưa rừng. Có lúc nằm ngủ trong tiêng chim ca bình minh. Lại có lúc đợi chờ mặt trời lặn "dể chiếm lấy riêng phần bí mật" của rừng đêm. Qua dó, ta càng thấy rõ doạn thơ với bức tranh tứ bình dược thể hiện bằng một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, dộc dáo.
"Thơ đích thực dể lại dấu ấn tâm hồn nghệ sĩ". Đoạn thơ trên dây đã để lại dấu ấn tâm hổn Thế Lữ bảy mươi năm về trước, một hổn thơ lãng mạn tuyệt dẹp. Một niềm khao khát tự do cháy bỏng tâm hổn.
Luận điểm 4: Nhớ đêm trăng, nhớ ngày mưa, nhớ bình minh,... rồi hổ nhớ lại những chiều tà trong khoảnh khắc hoàng hôn chờ đợi. Trong cảm nhận của mãnh hổ, trời chiều không đỏ rực mà là "lênh lánh máu sau rừng'. Mặt trời không lặn mà là "chêì”. Phút chờ đợi của chúa sơn lâm trong khoảnh khắc chiều làn và hoàng hôn thật dữ dội. Chúa sơn lâm sẽ "('hiểm lấy riêng phần hỉ mật" của rừng đêm, để "tung hoành". Ngôn ngữ thơ tráng lệ, nghệ thuật dùng từ sắc, mạnh, giàu giá trị gợi tả. Bức tranh thứ tư của bộ tứ bình là cảnh sắc một buổi chiều dữ dội, phút đợi chờ '7ể/z đường” của chúa sơn lâm. Càng nhớ càng xót xa nuối tiếc:
''Đâu những chiếu lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt 
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?"
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ
Bức tranh đêm trăng, bức tranh ngày mưa hay bức tranh lúc bình minh là những ý chính cần phân tích khi tìm hiểu bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ. 
1. Bức tranh đêm trăng và sự say sưa của chúa sơn lâm
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, thì bức tranh đầu tiên xuất hiện chính là hình ảnh hổ trong đêm trăng thơ mộng:
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?”
Cảnh đêm trăng hiện hữu trong không gian tràn đầy màu sắc ánh vàng của vầng trăng trên cao đang soi chiếu khắp nhân gian. Đặc biệt khung cảnh khi có sự xuất hiện của dòng suối với tiếng chảy róc rách lại càng trở nên sinh động, tươi mát. Trước cảnh ấy con hổ đứng bên bờ ngắm nhìn trong trạng thái say mồi, sảng khoái thưởng thức dòng suối mát trong. 
Có lẽ cái làm cho hổ kia phải say không chỉ đơn thuần bởi miếng mồi ngon mà còn là cái say trước sự lung linh, kì ảo của khung cảnh đang hiện hữu trước mắt. Hổ say mồi nhưng càng thỏa mãn hơn khi được uống vào những hớp nước có sự soi vàng của bóng trăng. Bao nhiêu nét gân guốc, dữ tợn của chúa tể vùng sơn lâm nhờ có cảnh đẹp hình như cũng trở nên mềm mại, bình thản hơn để có thể hòa vào cảnh vật. Tìm hiểu bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, ta thấy tất cả những điều trên đã tạo nên sự thơ mộng, kì ảo của một bức tranh có sự hài hòa của cả cảnh và vật.
Cảnh có đẹp, có thơ mộng và diệu kì đến nhường nào, hổ có bao lần được hòa mình vào “những đêm vàng bên bờ suối” để “say mồi đứng uống ánh trăng tan”, nhưng thực tại những giây phút sảng khoái cũng chỉ còn trong trí nhớ. Sự “say mồi” đầy thỏa mãn hay tư thế “đứng uống” chễm chệ trong những đêm tự do ấy nay đã lùi xa vào quá khứ nhưng với hổ thì những kỉ niệm và cảm giác ngây ngất ấy vẫn hiển hiện rất rõ rệt như chỉ mới diễn ra ngày hôm qua. Câu hỏi tu từ như xoáy mãi vào tâm can của chúa sơn lâm, tất cả đã trở thành quá khứ. Hai câu thơ như dáng dấp của một nhà thi sĩ đang ngắm nghĩa cái khung cảnh thiên nhiên thơ mông trữ tình. 
2. Bức tranh ngày mưa và sự điềm nhiên của chúa sơn lâm
Ở bức tranh thứ hai, tác giả lại dùng ngôn từ của mình vẫn để thể hiện hình ảnh trung tâm là con hổ trên phông nền của khung cảnh ngày mưa:
“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?”
Chúa sơn lâm lúc này đã không còn say sưa bên dòng suối mát lành và miếng mồi hấp dẫn như trong bức tranh trước đó. Trong khung cảnh “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” của núi rừng, thiên nhiên dường như cũng trở nên dữ dội, mịt mù. Mưa giăng khắp lối khiến cho vạn vật cũng rung chuyển theo. Ấy thế mà vị chúa tể của ta vẫn không hề có một chút nao núng trước những sự gào thét dữ dội của thiên nhiên và sự ngả nghiêng của vạn vật. 
Hổ vẫn hiên ngang, điềm tĩnh, bệ vệ trước cảnh ấy để thu vào trong mắt tất cả những chuyển biến của đất trời. Mưa gió càng tác động lên tất cả mọi thứ mạnh mẽ, đáng sợ bao nhiêu thì hổ ta vẫn giữ một thái độ của một bậc vương giả. Khi phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, ta thấy trên hết, hổ còn xem việc “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” trên thực chất là sự tác động để “giang sơn ta đổi mới”. Thế nên, trong trạng thái “lặng ngắm” kia, hổ thực chất đang đứng ở tư thế làm chủ vạn vật.
Con hổ trong những ngày mưa to gió lớn chốn rừng thiêng vẫn giữ phong thái điềm nhiên, tĩnh tại ấy lại chỉ là một hình ảnh của thời đã qua. Hổ giờ đây bị giam hãm trong chốn ngục tù, dù có râm mát, dù không bị tắm ướt bởi mưa nhưng đó chưa bao giờ là điều nó mong muốn. Ngày trước khi còn tự do giữa núi rừng đất trời và có lúc phải đón những cơn mưa rừng xối xả, dữ dội nhưng chúa sơn lâm chưa bao giờ phiền lòng vì điều đó. Ngược lại, trong cảnh mưa tuôn mịt mờ ấy, nó lại càng cảm thấy bản thân mạnh mẽ và oai hùng. Nói cách khác, thiên nhiên có thách thức như thế nào, hổ vẫn giữ được bản lĩnh của riêng mình. Khi bị giam cầm, bản lĩnh ấy vẫn còn và chỉ tiếc là nó lại không được thể hiện như trong chính nơi nó cần thuộc về. Nhưng tất cả cũng chỉ là quá khứ mà thôi. Con hổ đang tự hỏi mình hay nó đang nhớ nhung, tiếc nuối? Ở bức tranh thứ hai, hổ như một nhà hiền triết đang say mê ngắm giang sơn hùng vĩ của mình.
3. Bức tranh bình minh và sự uy nghi của chúa sơn lâm
Ở câu thơ thứ ba, thứ tư của đoạn thơ, tác giả đã giúp cho ta nhìn thấy sự tươi mới, rộn ràng của khung cảnh đất trời trong khoảnh khắc của ngày mới:
“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?”
Ngày mưa qua đi như làm cho bầu trời buổi sớm thêm phần trong trẻo, tươi sáng. Trong khung cảnh ấy, cây cối sau khi được tắm mát trong những trận mưa rừng đã đầy lại được gội mình trong nắng mới nên càng trở nên tươi tắn và tràn đầy sức sống. Góp vào sức sống bừng lên trên từng nhánh cây ngọn cỏ ấy là tiếng reo ca rộn rã của bầy chim rừng. Trong khung cảnh ấy, hổ xuất hiện trong giấc ngủ, nhưng lại là giấc ngủ “tưng bừng”.
Nếu trong đêm khi tất cả mọi vật đều sâu giấc thì hổ thức để say sưa cùng vũ trụ, những ngày mưa ai ai cũng tìm nơi ẩn trú thì hổ “lặng ngắm giang sơn” và giờ đây khi bình minh ló dạng thì hổ chìm vào giấc ngủ. Đặc biệt, vị chúa sơn lâm lại còn được dỗ giấc bằng không khí mát mẻ và cả những âm thanh tươi vui của vạn vật. 
Có thể thấy, khi sống trong môi trường của mình, hổ rất đỗi tự do vì có thể tự ý làm những điều mình muốn. Nó luôn đứng ở vị thế chế ngự đầy uy nghi và có thể chi phối kẻ khác chứ không bao giờ chịu phụ thuộc. Hình ảnh hổ lúc đó khác hẳn với tình cảnh bây giờ: không chỉ “làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi” mà còn phải “chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi”, “với cặp báo chuồng bên vô tư lự”. Ở đây, ta thấy hổ như một bậc đế vương được hàng ngàn loài chim ru ngủ.
4. Bức tranh về chiều cùng màu sắc của sự bi tráng
Bình minh qua, ngày tàn là thời khắc hoàng hôn gõ cửa. Bức tranh thứ tư của bài chính là diễn tả thời khắc ấy của cảnh rừng. Đây là bức tranh cuối cùng nhưng có thể gây được ấn tượng mạnh mẽ nhất:
“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”
Cảnh tượng hiện lên thật dữ dội trong hình ảnh “chiều lênh láng máu sau rừng”. Gam màu nóng trở thành gam màu chủ đạo của bức tranh. Đó có thể là màu của máu đỏ cũng có thể là màu của ánh sáng mặt trời. Nếu như ban ngày, mặt trời làm nhiệm vụ soi tỏa ánh sáng xuống nhân gian, sự sống của vạn vật cũng nương theo ánh sáng ấy mà vận hành thì đến khi mặt trời khuất bóng thì vạn vật cũng lấy khoảng thời gian mặt trời lặn xuống ấy để ngưng mọi hoạt động mà nghỉ ngơi. Thế nhưng, vị chúa tể lại đang chờ đón khoảnh khắc “chết mảnh mặt trời gay gắt” ấy để:
“Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?”
“Bí mật” ấy phải chăng chính là quyền lực từ tay vũ trụ. Hổ muốn chớp lấy cơ hội để đoạt được quyền lực ấy mà chế ngự hoàn toàn thế giới của nó.
Khát khao tuy to lớn, khung cảnh trong bốn bức tranh tuy hùng vĩ, nguy nga nhưng chỉ là những hình ảnh thuộc về dĩ vãng, dù có lúc hiển hiện rõ rệt nhưng kèm theo đó chỉ là nỗi nhớ da diết tới đau đớn của con hổ. Các điệp ngữ “nào đâu”, “đâu những” cùng hàng loạt các câu hỏi tu từ đã có vai trò diễn tả rất sâu sắc sự nhớ tiếc của con hổ đối với những gì nó đã trải qua. 
Thời oanh liệt của những ngày xưa cũ được tung hoành ngang dọc thực chất đã khép lại và có khi không bao giờ trở về. Với vị chúa tể, sau tất cả có lẽ còn lại chỉ là một tiếng than u uất không có sự đáp hồi:
“- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”
Đó là lời than của con hổ, là nỗi niềm của nhà thơ nhưng thực chất cũng là tiếng lòng, tâm trạng chung của những con người phải sống trong sự kìm kẹp, giam hãm. Đối với thời buổi người dân Việt Nam phải sống cảnh nô lệ, bài thơ của Thế Lữ đã thay họ thể hiện niềm tiếc nuối về những chiến công vẻ vang chống giặc ngoại xâm của một thời oanh liệt của dân tộc mình. Đó có lẽ lí do khiến bài thơ được đón nhận rất nồng hậu, say sưa ngay từ khi ra đời.
Kết bài: Những câu thơ khắc họa bốn bức tranh về thiên nhiên núi rừng và sự hiện hữu của chúa tể sơn lâm thực sự là những dòng tuyệt bút của bài thơ “Nhớ rừng”. Thông qua việc sử dụng điệp ngữ, câu hỏi tu từ và hàng loạt các hình ảnh gợi màu sắc, đường nét của cảnh vật thiên nhiên, Thế Lữ không chỉ làm xuất hiện trước mắt người đọc tuyệt phẩm diễn tả sự kì vĩ, hùng tráng của chốn rừng thiêng mà còn làm bộc lộ tâm sự, nỗi niềm của chúa tể sơn lâm. Đó cũng chính là tâm sự, nỗi niềm chung của con người thời đại
Dàn ý bức tranh tứ bình trong bài thơ nhớ rừng của Thế Lữ 
Để giúp bạn nắm được các ý chính trong bài viết trên cũng như tư tưởng và nội dung của tác phẩm, DINHNGHIA.VN sẽ giúp bạn khái quát để lập dàn ý bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.
Mở bài phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng
Đôi nét chính về tác giả Thế Lữ: người cầm lá cờ chiến thắng cho phong trào Thơ Mới
Giới thiệu tác phẩm Nhớ rừng của Thế Lữ: nêu khái quát tư tưởng cùng nội dung của bài thơ.
Dẫn dắt đến bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng. 
Thân bài phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng
Bức tranh đêm trăng và sự say sưa của con hổ.
Bức tranh ngày mưa và sự điềm nhiên của chúa sơn lâm.
Bức tranh lúc bình minh với sự uy nghi của con hổ.
Bức tranh chiều tàn cùng những sắc màu bi tráng. 
Kết bài phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng
- Khái quát lại toàn bộ giá trị nội dung và nghệ thuật điển hình trong tác phẩm.
- Nhấn mạnh lại ý nghĩa sâu sắc của bài thơ Nhớ rừng.
- Khẳng định bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng là một điểm nhấn mang đến giá trị lớn cho tác phẩm này. 
- Có thể thấy, tác phẩm Nhớ rừng đã thể hiện là một khúc trường ca dữ dội qua tâm trạng của chúa sơn lâm. Hơn hết, bài thơ còn là một họa phẩm, nổi bật lên trên những câu chữ là hình ảnh nhân dân Việt Nam dưới gót giày của quân giặc Bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng nhấn mạnh đến tính tạo hình đặc sắc của tác phẩm. Người đọc có thể thấy bút pháp tạo hình của nhà thơ vừa có họa pháp của một người họa sĩ, lại vừa có thi pháp của một thi nhân Hình ảnh chúa sơn lâm hiên lê thật bạo tàn đầy thách thức.
	Bốn bức tranh là bốn câu hỏi tu từ, là bốn nỗi nhớ nhung, tiếc nuối là 4 thời đại anh hùng của chúa sơn lầm. Nhưng đó còn là bốn nổi đau đớn khôn nguôi. Điệp ngữ “nào đâu, đâu” cứ khắc khoải cứ dồn nén, cứ du dương như những khúc nhạc của đại ngàn đang vẫy gọi.
Đề thi học sinh giỏi: : Nhắc về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, trong cuốn Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh đã từng nhận xét: "Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng lại được". Qua nhận định ấy, Hoài Thanh muốn khẳng định những giá trị về nghệ thuật của bài thơ Nhớ rừng. Thật vậy, 

File đính kèm:

  • docDAY THEM VAN 8 DOC LA HIEU LUON_12828848.doc