Bài thu hoạch Môđun 14,17, 25, 29
II. Cách xác đinh đề tài, nội dung và phương pháp viết SKKN
1. Cách xác định đề tài:
- Đề tài cần hướng vào những vấn đề cấp thiết, có tác dụng thúc đẩy, phát triển sự nghiệp GD, QLGD, đề tài phải có tính cấp thiết.
- Vấn đề chọn không nên quá rộng hoặc chung chung mà cần tập trung vào vấn đề cụ thể, nổi bật nhất trong thực tế công tác.
- Yêu cầu cơ bản của tên đề tài:
+ Ngắn gọn về ngôn ngữ.
+ Phản ánh rõ bản chất của qá trình biến đổi từ lúc chưa áp dụng SK - đạt được kết quả.
+ Rõ giới hạn của việc nghiên cứu.
ng tin cập nhật, một hình ảnh, một mẫu vật nào đó có liên quan đến bài giảng và có tác dụng phục vụ bài giảng. VD: Khi giảng bài: “Đàn ghi ta của Lor car” Ngoài ND SGK ta có thể thu thập thông tin liên quan đến nhà thơ Lorcar và đất nước Tây Ban Nha. Dạy về một tác giả văn học mà không nắm được thông tin của tác giả ấy thì khó có thể cảm nhận được hết được phong cách sáng tác của tác giả đó. Có thể nói việc tìm kiếm thông tin phục vụ bài giảng là vô cùng quan trọng. 2/ Các bước cơ bản trong việc tìm kiếm thông tin phục vụ bài giảng giáo viên cần tìm hiểu, nắm vững các thông tin sau: Dạy bài gì? Trong chương trình nào? Đối tượng học là ai? Trình độ nhận thức của học sinh thế nào? Thời gian thực hiện là bao lâu? (một tiết hay 2 tiết)... -Khai thác thông tin có liên quan đến bài dạy một cách hợp lý. Bước 1: Xác định mục tiêu,nội dung bài giảng, đối tượng học sinh. Bước 2 Tìm kiếm thông tin...(có thể trong cs, trong sách báo, các phương tiện thông tin đại chúng,trên mạng Internet) Bước 3: Lựa chọn thông tin tin cậy,phù hợp..... Một trong các điều kiện quan trọng nhất để tăng cường hiệu quả giáo dục và chất lượng giảng dạy là tìm kiếm nguồn tư liệu phong phú và phù hợp để bổ sung những nội dung được quy định trong chương trình và sách giáo khoa. Internet – Nguồn tư liệu vô tận cho các bài giảng sẽ giúp giáo viên và học sinh đáp ứng được yêu cầu đó. Những tư liệu được lựa chọn sẽ làm cho bài giảng trở nên phong phú, sống động, hấp dẫn hơn, học sinh sẽ tiếp thu bài giảng một cách tự nhiên hơn. Tuy nhiên, để hiểu và sử dụng Internet một cách có hiệu quả nhất, người giáo viên phải làm việc gì và cần có yêu cầu gì? Theo nhiều GV có kinh nghiệm trong khai thác Internet phục vụ công tác giảng dạy của mình đã chỉ ra rằng: Khi tìm kiếm, lựa chọn tư liệu cho bài học điều quan trọng nhất là tính phù hợp. Tư liệu phù hợp là tư liệu liên qua đến nội dung giảng; có nội dung, hình thức đa dạng (thông tin, hình ảnh, video...) và được chọn lọc; lượng thông tin bổ sung vừa đủ không quá ít, không quá nhiều làm loãng nội dung. Về nội dung: Tư liệu phải liên quan đến nội dung bài giảng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm định hướng tư duy cho hs. Về hình thức: Nếu đã có một tư liệu là văn bản hay kiến thức thì tư liệu khác nên được cung cấp dưới dạng ảnh. Vì tư liệu là thông tin bổ sung nên những tư liệu ảnh là rất thích hợp vì nó thường mới, truyền đạt thông tin nhanh thông qua quan sát chứ không phải đọc hay giảng. Về dung lượng: Thông tin và tư liệu chỉ được chiếm một tỷ lệ vừa đủ, tư liệu không thể lấn át nội dung chính của bài giảng mà nó chỉ bổ sung, làm cho kiến thức được cung cấp được hấp thụ dễ dàng và toàn diện hơn. 3/ Khai thác,xử lý thông tin thông tin phục vụ bài giảng Sau khi lựa chọn được thông tin phục vụ bài giảng.GV phân loại thông tin, sắp xếp việc đưa thông tin đó vào bài giảng như thế nào cho phù hợp là điều rất quan trọng, Là một công cụ rất hiệu quả và một kho thông tin vô tận, nhưng Internet cũng đòi hỏi giáo viên phải được trang bị những kiến thức, kỹ năng và những điều kiện nhất định. Điều cần thiết đầu tiên là tiếng Anh. Tuy các nội dung tiếng Việt đang phát triển với tốc độ rất nhanh nhưng nguồn thông tin lớn nhất và phong phú nhất trên Internet là bằng tiếng Anh. Nếu không có ngoại ngữ, giáo viên bị hạn chế khá nhiều. Thứ hai là những hiểu biết cơ bản dù chỉ ở mức đại cương như truy cập vào Internet thế nào? Làm thế nào để sử dụng những công cụ tra cứu, tìm kiếm như Google, Yahoo, Altavista, hay kỹ năng chọn lọc từ khoá tìm kiếm phù hợp với mục đích tra... sẽ giúp ích rất nhiều cho việc tìm kiếm tư liệu. Ngoài những thông tin có thể tìm kiếm trực tiếp trên website, việc liên lạc trực tiếp bằng thư điện tử (email) với các cá nhân, cơ sở nghiên cứu có thể tìm thấy trên Internet hay giữa các đồng nghiệp với nhau có thể giúp cung cấp những tư liệu chuyên môn quý. Điểm cuối cùng cũng rất quan trọng đó là muốn khai thác Internet thì cần phải truy cấp được vào Internet bằng cách nào. 3.1 Tìm kiếm thông tin bằng website Google: - Sử dụng trình duyệt Internet Explorer và gõ vào địa chỉ: (trang Google Mỹ) hoặc (trang Google Việt Nam) Tất nhiên, chúng ta sẽ sử dụng trang Google Việt Nam. Đầu tiên là chúng ta truy cập vào trang này:(Chú ý là khi gõ thông tin vào trang Web, nếu để gõ địa chỉ các đồng chí nên tắt chế độ tiếng Việt ở phông chữ, còn khi muốn gõ chữ Việt có dấu thì chuyển từ phông chữ TCVN3 sang Unicode). Khi đã truy cập vào Google, để tìm kiếm tư liệu phục vụ cho dạy và học, ta chỉ cần quan tâm đến 2 chức năng Tìm kiếm trang Web và tìm kiếm hình ảnh. Về tìm kiếm trang Web, tôi xin lấy một số ví dụ như sau: VD1: Khi cần tìm thư viện bộ môn Vật lý, các đồng chí gõ vào phần tìm kiếm nội dung sau: Thư viện vật lý. Khi đó xuất hiện một danh sách các trang Web có các thông tin theo mục đích tìm kiếm của mình. Chúng ta di chuyển đến một trang Web ... VD2: Khi tìm trang Web để học ngoại ngữ, ta gõ vào phần tìm kiếm: Học ngoại ngữ ... Về tìm hình ảnh: Nhấn chuột vào liên kết Hình ảnh. VD1: Trong môn Ngữ văn hoặc Lịch sử, khi cần tìm hình ảnh về Văn Miếu, ta gõ: Văn miếu ... VD2: Trong môn Hóa học, để tìm hình ảnh về cấu trúc phân tử HCl, ... 3.2 Một số trang Web phục vụ cho dạy và học Trang Web thư viện bài giảng: Trang Web dạy học trực tuyến: Mạng giáo dục edunet: Một số trang Web có những chức năng mà người sử dụng phải đăng ký thành viên mới có thể sử dụng được. Để đăng ký là thành viên chúng ta làm theo hướng dẫn của nhà quản trị. Thông thường chúng ta phải có địa chỉ email để nhà quản trị xác nhận thông tin đăng ký. 3.3 Lưu các địa chỉ thường dùng trong Favorites Có những địa chỉ mà ta dùng thường xuyên thì làm thế nào để mỗi khi cần dùng ta không phải tìm kiếm hoặc mất công gõ địa chỉ vào address. Để làm được điều này chúng ta Add tên các trang Web vào menu Favorites:B1: Mở trang Web cần Add.B2: Vào menu Favorites chọn Add to Favorites OKCách sử dụng: Khi cần mở trang Web đã có trong Fovorites ta chọn menu Fovorites chọn tên trang Web cần mở. 3.4Một số ví dụ. Việc vận dụng CNTT vào giảng dạy Ngữ văn, đặc biệt phần Văn học Việt Nam hiện đại (VHVNHĐ) là phần mà chúng tôi cho là thuận lợi nhất trong việc giảng dạy văn học ở nhà trường phổ thông, bởi lẽ, nhiều tác phẩm VHVNHĐ được đưa vào giảng dạy ở chương trình Ngữ văn THPT được chuyển thể thành kịch bản phim, hoặc các tác phẩm thơ được phổ nhạc, hoặc có các khúc ngâm do các nghệ sĩ có tên tuổi thể hiện¼Ví dụ, các tác phẩm "Tây tiến"- Quang Dũng, "Đây thôn Vĩ Dạ"- Hàn Mặc Tử, "Tràng giang"- Huy Cận¼ giáo viên có thể tích hợp giảng dạy Ngữ văn với âm nhạc, với phim ảnh, với các băng hình tư liệu liên qua đến tác phẩm văn học với các môn học khác như Địa lí, Hội họa¼. Ví dụ khi dạy bài "Đây thôn Vĩ Dạ", "Ai đã đặt tên cho dòng sông", GV có thể cho HS xem băng hình về xứ Huế, về sông Hương.. Hay cho học sinh nghe nghệ sĩ diễn ngâm một thi phẩm thơ khi khả năng của giáo viên hạn chế¼ Khi dạy bài Đàn ghi ta của Lorca ta có thể khai thác các thông tin sau dể đưa vào bài giảng: Bài hát “ Nếu tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” của nhạc sĩ Thanh Tùng. Những hình ảnh về đất nước Tây Ban Nha: Những dũng sĩ đấu bò tót, vũ nữ Di gan, loài hoa lila, thảo nguyên xanh, dòng sông. Những tư liệu về nhà thơ Lorca, về chế độ độc tài phát xít Tây Ban Nha Khi dạy bài Hôn Trương Ba da hàng thịt ta có thể tìm kiếm và khai thác thông tin về nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, video về vở kịch Hôn Trương Ba da hàng thịt. MÔ-ĐUN 25 VIẾT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT Mục 1. Vai trò của tổng kết kinh nghiệm và SKKN trong dạy học, giáo dục : 1.1 : Phần mở đầu : Hiểu về cụm từ và SKKN * Theo Hán Việt từ điển – Đào Duy Anh - Kinh nghiệm : điều mình đã nghiệm qua, điều mình từng nghe thấy - Sáng kiến : mới thấy xuất hiện lần đầu, mới bắt đầu phát minh * Theo Từ điển Tiếng Việt – NXB KHXH : - Tổng kết : nhìn lại toàn bộ việc đã làm, khi đã kết thúc hoặc sau một năm để có sự đánh giá chung, rút ra những kết luận chung - Kinh nghiệm : điều hiểu biết có được do tiếp xúc với thực tế, do từng trải - Sáng kiến : ý kiến mới, có tác dụng làm cho công việc tiến hành tốt hơn * Ở đây chỉ đề cập đến kinh nghiệm giảng dạy, kinh nghiệm giáo dục trong trường THCS . Vậy tổng kết kinh nghiệm (giảng dạy, giáo dục ) là việc giáo viên rút ra sự đánh giá chung , những kết luận chung về điều hiểu biết bản thân có được do tiếp xúc với thực tế giảng dạy, thực tế giáo dục, do từng trải hay là do từng nghe thấy . Đó là điều giáo viên đã nghiệm ra qua thực tế của bản thân , hay của người khác có khi là sau một năm học, có khi là trong quá trình lâu dài tích lũy. Còn sáng kiến kinh nghiệm là ý kiến mới, mới thấy xuất hiện lần đầu, bắt đầu phát minh có tác dụng làm cho công việc giảng dạy, giáo dục của giáo viên được tiến hành tốt hơn . Đó là điều giáo viên sáng tạo ra, mang tính riêng cá nhân và chưa từng có trước đó, có thể là dựa trên cơ sở của việc tổng kết kinh nghiệm. * Nội dung tổng kết kinh nghiệm và SKKN trong dạy học, giáo dục rất đa dạng. Có thể là : - vấn đề về nội dung dạy học bộ môn ( phân môn) : một vấn đề của kiến thức về bộ môn - vấn đề về phương pháp dạy học bộ môn: vận dụng và kết hợp các phương pháp để dạy một kiểu bài nhất định, hay cách thức , tiến trình dạy một đơn vị kiến thức theo kiểu loại, hay kĩ năng tích hợp kiến thức các kiến thức bộ môn, kiến thức liên môn, việc vận dụng các kĩ thuật dạy học tích cực với một bộ môn nhất định, về kĩ năng dạy học . - Vấn đề về phương pháp giáo dục ( công tác chủ nhiệm ): giáo dục hạnh kiểm, thực hiện giáo dục lồng ghép theo các yêu cầu như ATGT, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. 1.2: Vai trò của tổng kết kinh nghiệm và SKKN trong dạy học, giáo dục : Việc tổng kết kinh nghiệm và SKKN trong dạy học, giáo dục có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với quá trình thực hiện công việc được giao của mỗi giáo viên và việc nâng cao nhất lượng giảng dạy, giáo dục nói chung của nhà trường. a- Với giáo viên, việc tổng kết kinh nghiệm và SKKN trong dạy học, giáo dục đều cùng giúp hỗ trợ cho công việc giảng dạy và giáo dục của giáo viên nhưng ở mỗi mức độ khác nhau :Việc viết SKKN giúp cho việc phát huy sự sáng tạo riêng của mỗi giáo viên trong công việc giảng dạy và giáo dục. Các SKKN đem đến một “làn gió mới”, những thay đổi khởi sắc cho công việc giảng dạy và giáo dục, nó là kết quả của quá trình suy ngẫm, thử nghiệm để tìm ra giải pháp mới, tìm ra cách thức, con đường đi ngắn nhưng hiệu quả, đáp ứng với yêu cầu đổi mới của phương pháp dạy học và phương pháp giáo dục. Với việc áp dụng những cái mới đúng hướng sẽ giúp thúc đẩy cho nhiều điều mới khác ra đời, từ đó giúp cho việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc của giáo viên . Chuyên môn của giáo viên không vững vàng và không tâm huyết khó có thể có SKKN sáng tạo, chất lượng ra đời. Mỗi SKKN, mỗi cái mới ra đời là tâm huyết của mỗi giáo viên. . Còn với việc tổng kết kinh nghiệm, đây là việc giáo viên cần làm. Cũng giúp hỗ trợ cho công việc giảng dạy và giáo dục của giáo viên nhưng tổng kết kinh nghiệm lại là sự đúc rút tất cả những kinh nghiệm của bản thân và kinh nghiệm của đồng nghiệp khác đã được biết theo từng chủ đề, đề tài, để từ đó có sự chọn lọc việc cần làm, phương pháp tiến hành phù hợp với thực tế dạy học và giảng dạy của mỗi giáo viên . Việc chọn lựa, sắp xếp, hệ thống và khái quát một cách khoa học để rút ra những nhận xét, đánh giá về các kinh nghiệm đã được sử dụng đòi hỏi giáo viên phải có năng lực cần thiết như : lắng nghe và thấu hiểu, sự chính xác và khoa học, khả năng phán đoán và tổng hợp. Tổng kết kinh nghiệm là nền tảng giúp cho giaó viên tiến được xa hơn trong công việc b- Còn với nhà trường, ở góc độ công tác quản lí, việc tổng kết kinh nghiệm và SKKN trong dạy học, giáo dục có ý nghĩa, tác dụng ở cả chiều sâu và diện rộng. . Về SKKN, khi nhà trường phát động và phát triển thành một phong trào thực chất chứ không phải là mang tính hình thức thì sẽ giúp cho chất lượng chuyên môn của nhà trường có sự thay đổi rõ rệt, toàn diện về mọi mặt . SKKN sẽ càng hiệu quả hơn khi nó được phát huy, nhân rộng trong tập thể giáo viên vì sự thích hợp, dễ sử dụng. . Về tổng kết kinh nghiệm, nếu được chuyên môn nhà trường thực hiện thường xuyên theo từng đề tài, bám sát được yêu cầu thực tế giảng dạy và yêu cầu đổi mới phương pháp, đặc biệt nhất là giải quyết được những vướng mắc, những khó khăn của đa số giáo viên trong giảng dạy và giáo dục thì sẽ có tác dụng, ảnh hướng vô cùng hiệu quả. Tổng kết kinh nghiệm là nền tảng giúp cho việc quản lí sâu sát hơn vì việc phổ biến kinh nghiệm hay, tốt sẽ thuận lợi và khoa học hơn. Hiện nay việc viết SKKN của giáo viên vẫn còn tồn tại những hiện tượng đáng ngại như sao chép lẫn nhau, sao chép các SKKN từ mạng In ternet, hay còn sơ lược, thiếu sự đầu tư thích đáng . Còn việc tổng kết kinh nghiệm lại ít được giáo viên chú tâm . Cho dù có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan cho những tồn tại trên nhưng nói tóm lại, tổng kết kinh nghiệm và SKKN trong dạy học, giáo dục luôn vừa là một nhu cầu, vừa là yêu cầu của mỗi giáo viên, là phần việc phải làm và nên làm của mỗi giáo viên nói riêng và chuyên môn nhà trường nói chung. MỤC 2. Xác định đề tài, nội dung và phương pháp viết SKKN I. Một số vấn đề cần biết: 1. Khái niệm Sáng kiến kinh nghiệm: Theo từ điển tiếng Việt: Sáng kiến là những ý kiến mới có tác dụng làm cho công việc tiến hành tốt hơn. Sáng kiến là tạo ra, tìm ra, xây dựng nên một ý kiến, một ý tưởng, một giải pháp mới về một đối tượng hay hoạt động nào đó. KINH NGHIỆM Theo từ điển tiếng Việt: Kinh nghiệm là những điều hiểu biết có thể áp dụng hữu hiệu cho cuộc sống có được nhờ sự tiếp xúc, từng trải với thực tế. Kinh nghiệm là cái có thực, được chủ thể tích lũy trong quá trình trải nghiệm, là những kiến thức cao nhất của chủ thể. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Sáng kiến kinh nghiệm là những sáng kiến đã được thử nghiệm trong thực tế và đã thu được thành công nhất định, thể hiện sự cải tiến trong phương pháp hoạt động cho kết quả cao đáp ứng được nhu cầu của thực tế, công sức của những người tham gia hoạt động. ĐẶC ĐIỂM CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHỆM Có nét mới; Đã được áp dụng trong thực tế; Do chính người viết thực hiện. 2. Những yêu cầu cơ bản đối với một sáng kiến kinh nghiệm Khi viết một sáng kiến kinh nghiệm, tác giả cần làm rõ tính mục đích, tính thực tiễn, tính sáng tạo khoa học và khả năng vận dụng, mở rộng SKKN đó như thế nào?Sau đây là biểu hiện cụ thể cần đạt được của những yêu cầu trên: + Tính mục đích: - Đề tài đã giải quyết được những mâu thuẫn, những khó khăn gì có tính chất thời sự trong công tác giảng dạy, giáo dục học sinh, trong công tác phụ trách Đội TNTP.Hồ Chí Minh? - Tác giả viết SKKN nhằm mục đích gì? (nâng cao nghiệp vụ công tác của bản thân, để trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, để tham gia nghiên cứu khoa học) + Tính thực tiễn : - Tác giả trình bày được những sự kiện đã diễn ra trong thực tiễn công tác giảng dạy, giáo dục của mình, ở nơi mình công tác. - Những kết luận được rút ra trong đề tài phải là sự khái quát hóa từ những sự thực phong phú, những họat động cụ thể đã tiến hành ( cần tránh việc sao chép sách vở mang tính lý thuyết đơn thuần, thiếu tính thực tiễn ) + Tính sáng tạo khoa học: - Trình bày được cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn làm chỗ dựa cho việc giải quyết vấn đề đã nêu ra trong đề tài. - Trình bày một cách rõ ràng,mạch lạc các bước tiến hành trong SKKN - Các phương pháp tiến hành mới mẻ, độc đáo. - Dẫn chứng các tư liệu, số liệu và kết quả chính xác làm nổi bật tác dụng , hiệu quả của SKKN đã áp dụng. Tính khoa học của một đề tài SKKN được thể hiện cả trong nội dung lẫn hình thức trình bày đề tài cho nên khi viết SKKN, tác giả cần chú ý cả 2 điểm này. + Khả năng vận dụng và mở rộng SKKN: - Trình bày, làm rõ hiệu quả khi áp dụng SKKN (có dẫn chứng các kết quả,các số liệu để so sánh hiệu quả của cách làm mới so với cách làm cũ) - Chỉ ra được những điều kiện căn bản, những bài học kinh nghiệm để áp dụng có hiệu quả SKKN, đồng thời phân tích cho thấy triển vọng trong việc vận dụng và phát triển SKKN đã trình bày (Đề tài có thể vận dụng trong phạm vi nào? Có thể mở rộng, phát triển đề tài như thế nào?) Để đảm bảo được những yêu cầu trên, đòi hỏi người viết SKKN : + Phải có thực tế (đã gặp những mâu thuẫn, khó khăn cụ thể trong thực tiễn công tác giảng dạy, giáo dục học sinh, trong việc giải quyết những vấn đề thực tiễn của công tác Đội TNTP ở địa phương, cơ sở nới mình công tác) + Phải có lý luận làm cơ sở cho việc tìm tòi biện pháp giải quyết vấn đề. + Có phương pháp, biết trình bày SKKN khoa học, rõ ràng, mạch lạc: - Nắm vững cấu trúc của một đề tài, biết cân nhắc, chọn lọc đặt tên các đề mục phù hợp nội dung,thể hiện tính logic của đề tài -Nắm vững các phương pháp nghiên cứu khoa học.Khi xác định một phương pháp nào đó được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài, tác giả cần phải xác định được các yếu tố cơ bản: Mục tiêu của việc thực hiện phương pháp?Phương pháp được áp dụng với đối tượng nào?Nội dung thông tin cần thu được qua phương pháp đó? Những biện pháp cụ thể để tiến hành phương pháp nghiên cứu có hiệu quả? + Thu thập đầy đủ các tư liệu, số liệu liên quan đến kinh nghiệm trình bày. Các số liệu được chọn lọc và trình bày trong những bảng thống kê thích hợp, có tác dụng làm nổi bật vấn đề mà tác giả muốn chứng minh, dẫn chứng. II. Cách xác đinh đề tài, nội dung và phương pháp viết SKKN 1. Cách xác định đề tài: - Đề tài cần hướng vào những vấn đề cấp thiết, có tác dụng thúc đẩy, phát triển sự nghiệp GD, QLGD, đề tài phải có tính cấp thiết. - Vấn đề chọn không nên quá rộng hoặc chung chung mà cần tập trung vào vấn đề cụ thể, nổi bật nhất trong thực tế công tác. - Yêu cầu cơ bản của tên đề tài: + Ngắn gọn về ngôn ngữ. + Phản ánh rõ bản chất của qá trình biến đổi từ lúc chưa áp dụng SK - đạt được kết quả. + Rõ giới hạn của việc nghiên cứu. 2. Cách xây dựng nội dung đề tài: Bước 1: Trang bị lí luận - Là việc thu thập, tham khỏa các tài liệu liên quan đến đề tài như những báo cáo, SKKN, cái tài liệu lí luận, phương pháp luận... Phục vụ cho vến đề đã chọn. - Trang bị lí luận chính là sự học tập, lĩnh hội KN của bản thân tác giả để viểt SKKN. - Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các bài viết trước. Bước 2: Thu thập dữ liệu: - Thu thập tư liệu thực tế từ khi bắt đầu đến kết thúc quá trình áp dụng SK để làm sáng tỏ quá trình biến đổi hoạt động GD. - Những số liệu, tư liệu về tình hình thực tế khi chưa áp dụng sáng kiến. Phân tích những điều kiện thuận lợi, khó khăn của đơn vị với quá trình hoạt động. - Hệ thống biện pháp đã tác động. Bước 3: Phân tích, xử lí dữ liệu - Từ tất cả các tư liệu trên, phân tích những chuyển biến tích cực do áp dụng SK. - Tìm ra các quy luật, bài học kinh nghiệm. 3. Phương pháp viết SKKN: + Chọn đề tài ( đặt tên đề tài ): Các vấn đề có thể chọn để viết SKKN rất phong phú, đa dạng, bao gồm nhiều lĩnh vực như : - Kinh nghiệm trong việc giảng dạy ( một chương, một bài, một nội dung kiến thức cụ thể ) - Kinh nghiệm trong việc giáo dục học sinh - Kinh nghiệm trong việc bồi dưỡng, phụ đạo học sinh - Kinh nghiệm trong việc tổ chức một họat động giáo dục cụ thể cho học sinh ( Ví dụ: họat động giáo dục ngòai giờ lên lớp, công tác xã hội ) - Kinh nghiệm giải quyết những vấn đề khó khăn, phức tạp trong khi tiến hành các họat động, các phong trào của Đội TNTP. Hồ Chí Minh ( VD: Tổ chức sinh hoạt sao nhi đồng, bồi dưỡng phụ trách sao,bồi dưỡng năng lực tự quản cho đội viên, bồi dưỡng BCH Đội, bồi dưỡng phụ trách chi đội,triển khai chương trình rèn luyện đội viên,xây dựng một mô hình họat động Đội, tổ chức bồi dưỡng một số kỹ năng cụ thể cho phụ trách chi đội, BCH đội,phụ trách sao) Khi tiến hành công việc viết SKKN, công việc đầu tiên của tác giả là cần suy nghĩ lựa chọn một tên đề tài phù hợp. Trong nghiên cứu khoa học (viết
File đính kèm:
- bai_thu_hoach_modul_14172529.doc