Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên - Module THPT 14,18,20,23 - Năm học 2015-2016 - Phạm Thị Hiên
Tùy theo từng nhiệm vụ học tập mà sử dụng hình thức học sinh làm việc cá
nhân hoặc hoạt động nhóm cho phù hợp, không nên thực hiện PPDH này một cách
hình thức. Không nên lạm dụng hoạt động nhóm và cần đề phòng xu hướng hình
thức (tránh lối suy nghĩ: đổi mới PPDH là phải sử dụng hoạt động nhóm). Chỉ
những hoạt động đòi hỏi sự phối hợp của các cá nhân để nhiệm vụ hoàn thành
nhanh chống hơn, hiệu quả hơn hoạt động cá nhân mới nên sử dụng phương pháp
này. Tạo điều kiện để các nhóm tự đánh giá lẫn nhau hoặc cả lớp cùng đánhgiá.
PPDH hợp tác tronh nhóm nhỏ cho phép các thành viên trong nhóm chia sẻ
các suy nghĩ, băn khoăn, kinh nghiệm, hiểu biết của bản thân, cùng nhau xây dựng
nhận thức, thái độ mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể
nhận rõ trình độ hiểu biết của mình và chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm
những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải chỉ là sự
tiếp nhận thụ động từ GV. Thành công của lớp học phù thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mọi thành viên, vì vậy phương pháp này còn được gọi là phương
pháp huy động mọi người cùng tham gia, hoặc rút gọn là phương pháp cùng tham
gia.
thay mặt hoặc nhóm trình bày, hoặc có thể nhiều người trình bày, mỗi người một đoạn nối tiếp nhau). - Trong suốt quá trình học sinh thảo luận, giáo viên cần đến các nhóm, quan sát lắng nghe, gợi ý, giúp đỡ học sinh khi cần thiết. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều được hoạt động tích cực, không thể ỷ lại vào một vài người năng động và nổi trội hơn. Các thành viên trong nhóm có thể giúp nhau tìm hiểu vấn đề trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc có thể phân công mỗi nhóm viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ được giao là khá phức tạp. Tùy theo từng nhiệm vụ học tập mà sử dụng hình thức học sinh làm việc cá nhân hoặc hoạt động nhóm cho phù hợp, không nên thực hiện PPDH này một cách hình thức. Không nên lạm dụng hoạt động nhóm và cần đề phòng xu hướng hình thức (tránh lối suy nghĩ: đổi mới PPDH là phải sử dụng hoạt động nhóm). Chỉ những hoạt động đòi hỏi sự phối hợp của các cá nhân để nhiệm vụ hoàn thành nhanh chống hơn, hiệu quả hơn hoạt động cá nhân mới nên sử dụng phương pháp này. Tạo điều kiện để các nhóm tự đánh giá lẫn nhau hoặc cả lớp cùng đánhgiá. PPDH hợp tác tronh nhóm nhỏ cho phép các thành viên trong nhóm chia sẻ các suy nghĩ, băn khoăn, kinh nghiệm, hiểu biết của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái độ mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình và chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ GV. Thành công của lớp học phù thuộc vào sự nhiệt tình Trường THPT Hoàng Hoa Thám - 5 - tham gia của mọi thành viên, vì vậy phương pháp này còn được gọi là phương pháp huy động mọi người cùng tham gia, hoặc rút gọn là phương pháp cùng tham gia. 1.5. Các cách thành lập nhóm Có nhiều cách để thành lập nhóm theo các tiêu chí khác nhau, không nên áp dụng một tiêu chí duy nhất trong cả năm học. Bảng sau đây trình bày 10 cách theo tiêu chí khác nhau. Tiêu chí Cách thực hiện – Ưu, nhược điểm 1. Các nhóm gồm những người tự nguyện, chung mối quan tâm + Đối với HS đây là cách dễ chịu nhất để thành lập nhóm, đảm bảo công việc thành công nhanh nhất. - Dễ tạo sự tách biệt giữa các nhóm trong lớp, vì vậy cách tạo nhóm như thế này không nên là khả năng duy nhất. 2. Các nhóm ngẫu nhiên Bằng cách đếm số, phát thẻ, gắp tăm, sắp xếp theo màu sắc + Các nhóm luôn luôn mới sẻ đảm bảo là tất cả các HS đều có thể học tập chung nhóm với tất cả HS khác. - Nguy cơ có trục trặc sẽ tăng cao, HS phải sớm làm quen với việc đó để thấy rằng cách lập nhóm như vậy là bình thường 3. Nhóm ghép hình Xé nhỏ một bức tranh trong các tờ tài liệu xử lí, HS được phát các mẫu xé nhỏ, những HS ghép thành bức tranh hoặc tờ tài liệu đó sẽ tạo thành nhóm. + Cách tạo lập nhóm kiểu vui chơi, không gây ra sự đối địch - Cần một chi phí để chuẩn bị và cần nhiều thời gian hơn để tạo lập nhóm. 4. Các nhóm với đặc điểm chung Ví dụ: Tất cả những học sinh cùng sinh ra trong mùa đông, mùa xuân, mùa hè, mùa thu sẽ tạo thành nhóm. + Tạo lập nhóm một cách độc đáo, tạo nhiều niềm vui cho Trường THPT Hoàng Hoa Thám - 6 - HS có thể biết nhau rõ hơn. - Cách làm này mất đi tính độc đáo nếu được sử dụng thường xuyên. 5. Các nhóm cố định trong một thời gian dài Các nhóm duy trì trong một số tuần hoặc một số tháng, các nhóm này thậm chí có thể được đặt tên riêng. + Cách làm này đã được chứng tỏ tốt trong những nhóm học tập có nhiều vấn đề. - Sau khi quen nhau một thời gian dài thì việc áp dụng các nhóm mới sẽ khó khăn. 6. Nhóm HS khá để hỗ trợ HS yếu Những HS khá giỏi trong lớp cùng luyện tập với các HS yếu hơn và đảm nhận nhiệm vụ của người hướng dẫn. + Tất cả đều được lợi. Những HS giỏi đảm nhận trách nhiệm, những HS yếu được giúp đỡ. - Ngoài việc mất nhiều thời gian thì chỉ có một nhược điểm, trừ phi những HS giỏi hướng dẫn sai. 7. Phân chia theo năng lực học tập khác nhau Những HS yếu hơn sẽ xử lý các bài tập cơ bản, những HS đặc biệt giỏi sẽ nhận thêm những bài tập bổ sung. + HS có thể tự xác định mục đích của mình. Ví dụ ai bị điểm kém trong môn toán thì có thể tập trung vào một ít bài tập. - Cách làm này dẫn đến kết quả là nhóm học tập cảm thấy bị chia thành những HS thông minh và những HS kém. 8. Phân chia theo các dạng học tập Được áp dụng thường xuyên khi học tập theo tình huống, những HS thích học tập với hình ảnh, âm thanh hoặc biểu tượng sẽ nhận được những bài tập tương ứng. + HS sẽ biết các em thuộc dạng học tập như thế nào? - HS chỉ học những gì mình thích và bỏ qua những nội dung khác. 9. Nhóm với các bài Ví dụ, trong khuôn khổ một dự án, một số HS sẽ khảo sát Trường THPT Hoàng Hoa Thám - 7 - tập khác nhau một xí nghiệp, một số khác khảo sát một cơ sở chăm sóc xã hội + Tạo điều kiện học tập theo kinh nghiệm đối với những gì đặc biệt quan tâm. - Thường chỉ có thể áp dụng trong khuôn khổ một dự án lớn. 10. Phân chia HS nam và nữ + Có thể thích hợp nếu học về những chủ đề đặc trưng cho nam và nữ, ví dụ trong giảng dạy về tình dục, chủ đề lựa chọn nghề nghiệp - Nếu bị lạm dụng sẽ dẫn đến mất bình đẳng nam nữ. * Ví dụ minh họa: Khi học bài "Bất phương trình và hệ bất phương trình bậc nhất một ẩn (Đại số 10)", để củng cố bài có thể cho hs hoạt động theo nhóm để giải các bài tập trong phiếu học tập sau: Phiếu học tập số 1: Khi giải bất phương trình 2( 1)(2 1) 0x x (1), bạn Hòa đã giải như sauu: 2( 1)(2 1) 0 1 0 1x x x x (2) Vậy tập nghiệm của bất phương trình đã cho là ( ;1) . Xét xem lời giải trên đã đúng chưa? Nếu chưa đúng, hãy sửa lại. Phiếu học tập số 2: Khi giải hệ bất phương trình 2( 9) 0 2 3 0 x x (1), bạn Bình đã giải như sau: Ta có: 2 33 0( 9) 0 (1) 33 2 32 3 0 2 x xx x xx x (2) Vậy tập nghiệm của hệ bất phương trình đã cho là (3; ) Xét xem lời giải trên đã đúng chưa? Nếu chưa đúng, hãy sửa lại. Trường THPT Hoàng Hoa Thám - 8 - Chia học sinh thành các nhóm, mỗi nhóm từ 4-5 học sinh. Phân công nhiệm vụ (một nửa số nhóm làm phiếu số 1, một nửa số nhóm còn lại làm phiếu số 2). Các nhóm làm bài (thời gian: 3 phút), sau đó đại diện các nhóm trình bày kết quả làm việc của nhóm mình, học sinh cả lớp cùng nhận xét, bổ sung và hoàn chỉnh. Từ việc thảo luận như trên, học sinh nhận thấy một số sai lầm cần tránh khi giải bất phương trình, hệ phương trình. Câu 2: Trình bày một số phương pháp và công cụ kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh. (2,5đ) Trả lời: Một số phương pháp và công cụ kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh: 1. Kiểm tra vấn đáp 1.1 Khái niệm: Kiểm tra miệng là phương pháp đánh giá rất phổ biến trong dạy học. Trong đó giáo viên đưa ra các câu hỏi ngắn để học sinh trả lời. Học sinh có thể được chuẩn bị, hoặc không được chuẩn bị trước câu hỏi. Căn cứ vào câu trả lời, giáo viên có thể đo lường và đánh giá các kết quả đạt được ở học sinh a. Điểm mạnh - Tính linh hoạt, cơ động - Có thể kiểm tra trí nhớ, tư duy hay các phẩm chất tâm lý khác - Có thể tiến hành trong và ngoài lớp học. - Dùng để đánh giá học sinh trước, trong và kết thúc khóa học. - Giá trị chẩn đóan các câu hỏi miệng khá cao, vì giáo viên có điều kiện trao đổi với từng học sinh và kích thích tư duy của họ b. Hạn chế - Phương pháp đánh giá mang đậm chất chủ quan của giáo viên( cách đặt câu hỏi, nhận xét và đánh giá tức thời) - Khó so sánh giữa các học sinh - Tốn nhiều thời gian trong quá trình kiểm tra - Nhiều học sinh ngại tiếp xúc, ngại nói trước mặt giáo viên, ảnh hưởng đến kết quả bài thi Trường THPT Hoàng Hoa Thám - 9 - 1.2. Một số gợi ý khi sử dụng phương pháp đánh giá bằng vấn đáp. - Xác định rõ ràng mục đích của bài kiểm tra vấn đáp + Nhằm mục đích gì + Đánh giá nhanh kiến thức của học sinh trong giờ học hay bài thi hết môn, cuối khóa - Câu hỏi nên được soạn trước để học sinh có thời gian chuẩn bị, nhất là đối với bài thi cuối khóa. - Dung lượng câu hỏi không quá dài. Nội dung phải phù hợp với mục tiêu đánh giá. Không đề cập nhiều nội dung trong một câu hỏi. Hạn chế câu hỏi có tính chất học thuộc. Khuyến khích các câu hỏi suy luận và kích thích tư duy của học sinh - Câu hỏi rõ rang, nhất quán, ngôn ngữ chính xác - Thái độ hỏi thi của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến câu trả lời của học sinh. Không nên có thái độ quan tòa trong lúc hỏi thi. Có những câu hỏi phụ để gợi mở. Tối kị nhìn người cho điểm. 2. Bài kiểm tra tự luận: 2.1 Khái niệm. - Bài kiểm tra (bài thi) dạng tự luận truyền thống là bài thi trong đó, học sinh tự do viết câu trả lời ra giấy về một vấn đề cho trước. Dựa vào những câu trả lời được viết ra , giáo viên cần cho điểm hoặc xác định các mức độ kết quả bài thi. - Phân biệt: + Bài thi tự luận: số lượng câu hỏi ít và có tính mở. + Trong bài trắc nghiệm tự luận ngắn: số lượng câu hỏi nhiều và có tính xác định cao. - Một số ưu điểm và hạn chế của bài kiểm tra tự luận: * Ưu điểm, Hạn chế - Có khả năng đo lường được các mục tiêu đã xác định trước. - Khả năng độc lập suy nghĩ, phát huy tính sáng tạo trí tuệ và cảm xúc của học sinh. - Đánh giá được kiến thức và thái độ của học sinh. - Nội dung bài thi khó bao quát tòan bộ chương trình, chỉ tập trung vào một số ít phần chính. Trường THPT Hoàng Hoa Thám - 10 - - Khó xác định các tiêu chí đánh giá. Bài thi khó chấm và chấm lâu. - Khó đảm bảo tính khách quan trong khâu chấm bài , mang tính chủ quan của người chấm. 2.2: Một số gợi ý khi sử dụng phương pháp - Xác định rõ ràng mục tiêu đánh giá - Câu hỏi phải phù hợp với nội dung và mục tiêu học tập. - Sắp xếp các câu theo trình tự từ dễ đến khó. - Quy định thời gian và điểm cho mỗi câu hỏi - Chấm bài phải có và chấm theo đáp án. 3. Bài kiểm tra trắc nghiệm 3.1. Khái niệm: Phương pháp đánh giá bằng bài thi trắc nghiệm là phương pháp sử dụng bài trắc nghiệm làm công cụ để đánh giá kết quả học tập của học sinh. * Phân loại: - Căn cứ vào giáo dục, ta chia thành hai loại + TN năng lực: đo về năng lực của cá nhân ( TN trí tuệ, TN năng khiếu) + TN kết quả học tập: đánh giá tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ của học sinh. - Căn cứ vào mục đích sử dụng kết quả TN: + TN đối chiếu: so sánh kết quả học tập giữa các học sinh. + TN theo tiêu chí: xác định khả năng hay kết quả học tập của học sinh so với mục tiêu đề ra ban đầu. - Căn cứ vào nội dung môn học: + TN viết + TN phi ngôn ngữ + TN dùng lời 3.2. Ưu điểm – hạn chế của Trắc nghiệm * Ưu điểm: - Bài TN có thể đo được dải khá rộng các mức độ kết quả học tập của học sinh Trường THPT Hoàng Hoa Thám - 11 - - Theo mục tiêu: biết, hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp và đánh giá. Ngoài ra còn đo được các mục tiêu cảm xúc và tâm vận của học sinh. - Tính khách quan cao. - Tính bao quát về nội dung lẫn đối tượng cao - Tiết kiệm thời gian (làm nhanh, dễ chấm, chấm nhanh) * Hạn chế: - Khó đánh giá chiều sâu trong nhận thức của học viên, đặc biệt là sức sáng tạo của học sinh. - Việc soạn thảo bài trắc nghiệm khó, đòi hỏi người soạn phải có kĩ thuật, kinh nghiệm - Việc soạn thảo hình thành bài TN tốn nhiều thời gian, qua nhiều công đoạn phức tạp, tốn kinh phí. 3.3. Các loại câu hỏi trắc nghiệm: + Câu hỏi lựa chọn - Câu hỏi lựa chọn là loại câu hỏi, trong đó có phần gốc và phần trả lời. Phần gốc là một câu dẫn, tạo cơ sở cho sự lựa chọn. Phần trả lời là các phương án cho sẵn, trong đó có một phương án đúng nhất theo nội dung của phần dẫn, còn các phương án khác có tác dụng gây nhiễu. Trong một câu hỏi, tốt nhất là nên có từ 4- 5 phương án lựa chọn. - Một số yêu cầu khi soạn thảo: + Phần gốc và phần lựa chọn phải trên cùng một nội dung đánh giá. Chủ ngữ phải phù hợp với động từ +Các phương án trả lời phải tương tự nhau về độ khó, độ dài của câu. +Hạn chế những câu trả lời dạng : tất cả những ý đó, tất cả đều sai(dễ làm học viên hiểu lầm xem đó là gợi ý ) +Chỉ nên có một lựa chọn đúng +Vị trí các câu trả lời đúng cần được đảo ngược ngẫu nhiên. -Câu hỏi đúng – sai Trường THPT Hoàng Hoa Thám - 12 - Câu hỏi đúng – sai là loại câu khẳng định hoặc phủ định về một vấn đề nào đó. Học viên phải đọc, suy nghĩ và nhận định lời khẳng định hoặc phủ định đó là đúng hay sai. Ví dụ: Tâm lý người mang bản chất xã hội – lịch sử - Câu hỏi đúng sai phù hợp để hỏi những sự kiện, thuật ngữ và các kiến thức có quan hệ nhân quả. Dễ khuyến khích người trả lời phỏng đoán, không phù hợp khi dùng đo các kiến thức có tính suy luận cao, vì vậy không nên dùng nhiều trong các bài trắc nghiệm. - Một số yêu cầu khi soạn thảo + Ngôn ngữ rõ ràng, ngắn gọn, súc tích. + Tránh dùng câu phủ định như “không”, “không phải” hoặc các từ “đôi khi”, “luôn luôn”, vì chúng dễ gây hiểu lầm + Bố trí các câu đúng và câu sai có dụng ý, nhằm tránh sự trùng lặp các câu đúng hoặc sai theo qui luật. - Câu ghép đôi là câu hỏi có hai phần: phần dẫn và phần trả lời. Phần dẫn thường ở bên trái, là các câu, các mệnh đề nêu thuật ngữ, nội dung, định nghĩaPhần trả lời là phần bên phải, cũng bao gồm các câu, mệnh đềmà nếu được ghép đúng vào mệnh đề dẫn ở bên trái sẽ trở thành một phương án đúng, một ý hoàn chỉnh. Nhiệm vụ của học viên là ghép mệnh đề có trong phần trả lời vào mệnh đề tương ứng ở phần dẫn. - Các câu dạng ghép đôi có thể đánh giá được mức độ hiểu của các dữ kiện. tuy nhiên, khó phản ánh tư duy cấp cao, khó soạn thảo -Câu hỏi điền thế Ví dụ: Tri giác là sự phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng đang .... tác động vào các giác quan. - Câu hỏi ngắn Ví dụ: Hãy nêu ngắn gọn cảm giác là gì? 3.4. Yêu cầu của bài trắc nghiệm - Có giá trị Trường THPT Hoàng Hoa Thám - 13 - - Có độ tin cậy về kết quả - Độ khó của câu và bài trắc nghiệm - Độ phân biệt 4. Các hình thức cho điểm bài kiểm tra, đánh giá 4.1 Nhận xét của giáo viên - Việc nhận xét của giáo viên về bài làm của học sinh là công việc nặng nhọc nhưng đó là công việc thể hiện trách nhiệm cao và là hình thức cho điểm hiệu quả nhất đối với bài kiểm tra của học sinh. - Một lời phê phán tốt của giáo viên là: + Nhận xét về những điểm đã đạt được và những điểm chưa đạt được.. + Đưa ra được những gợi ý về nguyên nhân của những khiếm khuyết và cách khắc phục trong bài làm lại + Nhận xét có giá trị động viên chứ không phải là lời phán xét 4.2 Chấm điểm Điểm số không chỉ là sự xác nhận mà còn có giá trị động viên rất lớn. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào ý đồ và cách chấm điểm của giáo viên - Các loại điểm số: + Điểm xác nhận và để thông báo về mức độ kết quả của học sinh so với người khác + Điểm số điều chỉnh: điều chỉnh hành động học tập của học sinh - Các hình thức chấm điểm: + Điểm số thập phân, bách phân (điểm 10 hoặc 100) + Điểm bằng chữ cái: A B C D E + Lời phê: Đạt, Không đạt + Phân loại: Xuất sắc, giỏi, khá, trung bình, yếu, kém + Hỗn hợp: Điểm số kết hợp với phân loại, điểm số kết hợp chữ cái với phân loại Một số điểm lưu ý khi chấm điểm - Điểm phải chia thành các phần dựa trên thời lượng bài tập - Các học sinh phải được biết rõ điểm của từng phần trước khi làm bài - Nên chấm phần làm tốt trước sau đó mới chấm phần khiếm khuyết Trường THPT Hoàng Hoa Thám - 14 - - Nếu điểm số nhằm mục đích phân hạng hay phân loại thì bài kiểm tra nên cấu trúc theo độ khó tăng dần - Nếu điểm số nhằm điều chỉnh hành vi học tập của học sinh thì nên dành nhiều điểm cho các câu hỏi khó. Câu 3: Vai trò của thiết bị dạy học trong đổi mới phương pháp dạy học. (2,5đ) Trả lời: - Là thành tố trong quá trình dạy học, nó có mối quan hệ tương hỗ với các thành tố khác trong quá trình dạy học. -Thiết bị dạy học là điều kiện để thực hiện nguyên lý giáo dục ’’ học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn ’’. - Thiết bị dạy học được coi là tiền đề đổi mới phương pháp dạy học, góp phần làm sáng tỏ lý thuyết, tạo điều kiện cho học sinh hoạt động với tư cách là trung tâm của quá trình dạy học. - Thiết bị dạy học là yếu tố cần thiết không thể thiếu được trong quá trình dạy học, chúng có tác dụng tích cực và có tính động lực, tác động một cách có hiệu quả đối với quá trình dạy của thầy và học của trò. -Thiết bị dạy học đẩy mạnh hoạt động nhận thức và phát triển năng lực nhận thức của học sinh, giúp hoc sinh tự khám phá, chiếm lĩnh tri thức mới nhằm phát triển tư duy, óc quan sát, năng lực ghi nhớ, khả năng vận dụng sáng tạo, củng cố rèn Mục tiêu Giáo viên Học sinh Phương pháp Nội dung TBDH Trường THPT Hoàng Hoa Thám - 15 - luyện kỹ năng. - Cung cấp kiến thức cho HS một cách chắc chắn, chính xác và trực quan; do đó hấp dẫn và kích thích được hứng thú học tập của HS. - Rút ngắn thời gian giảng dạy mà vẫn bảo đảm HS lĩnh hội đủ nội dung học tập. - Gia tăng cường độ lao động của cả GV và HS; do đó nâng cao hiệu quả dạy học. - Thể hiện được những yếu tố trong thực tế khó hoặc không quan sát, tiếp cận được. Câu 4: Dạy học tích hợp là gì? Đặc điểm cơ bản của dạy học tích hợp? (2,5đ) Trả lời: - Dạy học tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học”. - Đặc điểm cơ bản của dạy học tích hợp: a. Lấy người học làm trung tâm: Dạy học lấy người học làm trung tâm được xem là phương pháp đáp ứng yêu cầu cơ bản của mục tiêu giáo dục nhất là đối với giáo dục nghề nghiệp, có khả năng định hướng việc tổ chức quá trình dạy học thành quá trình tự học, quá trình cá nhân hóa người học. Dạy học lấy người học là trung tâm đòi hỏi người học là chủ thể của hoạt động học, họ phải tự học, tự nghiên cứu để tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình, người học không chỉ được đặt trước những kiến thức có sẵn ở trong bài giảng của giáo viên mà phải tự đặt mình vào tình huống có vấn đề của thực tiễn, cụ thể và sinh động của nghề nghiệp rồi từ đó tự mình tìm ra cái chưa biết, cái cần khám phá học để hành, hành để học, tức là tự tìm kiếm kiến thức cho bản thân. Trong dạy học lấy người học làm trung tâm đòi hỏi người học tự thể hiện mình, phát triển năng lực làm việc nhóm,hợp tác với nhóm, với lớp. Sự làm việc theo nhóm này sẽ đưa ra cách thức giải quyết đầy tính sáng tạo, kích thích các thành viên trong nhóm hăng hái tham gia vào gỉai quyết vấn đề. Sự hợp tác giữa người học với người học là hết sức quan trọng nhưng vẫn chỉ là ngoại lực, điều quan trọng nhất là cần phải phát huy nội lực là tính tự chủ, chủ Trường THPT Hoàng Hoa Thám - 16 - động nổ lực tìm kiếm kiến thức của người học. Còn người dạy chỉ là người tổ chức và hướng dẫn quá trình học tập, đạo diễn cho người học tự tìm kiếm kiến thức và phương thức tìm kiếm kiến thức bằng hành động của chính mình. Người dạy phải dạy cái mà người học cần, các doanh nghiệp đang đòi hỏi để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có chất lượng cao cho nền kinh tế- xã hội chứ không phải dạy cái mà người dạy có. Quan hệ giữa người dạy và người học được thực hiện dựa trên cơ sở tin cậy và hợp tác với nhau. Trong quá trình tìm kiếm kiến thức của người học có thể chưa chính xác, chưa khoa học, người học có thể căn cứ vào kết luận của nguời dạy để tự kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm về cách học của mình. Nhận ra những sai sót và biết cách sửa sai đó chính là biết cách học. Dạy học tích hợp biểu hiện cách tiếp cận lấy người học là trung tâm, đây là xu hướng chung có nhiều ưu thế so với dạy học truyền thống. b. Định hướng đầu ra Đặc điểm cơ bản nhất, có ý nghĩa trung tâm của đào tạo nghề theo năng lực thực hiện là định hướng chú ý vào kết quả đầu
File đính kèm:
- Thu_hoach_BDTX_20152016_14_18_20_23.pdf