Bài thu hoạch Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên - Module 13: Vai trò của nhu cầu và động cơ học tập của học sinh THPT trong xây dựng kế hoạch dạy học
2. Nhu cầu học tập của học sinh THPT:
+ Hoạt động học tập: là hoạt động đặc trưng cơ bản của con người, được điều khiển bởi mục đích tự giác là chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kĩ năng, kỹ xảo mới tương ứng và các phương thức khái quát của hoạt động học tập bằng phương pháp nhà trường.
Chủ thể hoạt động học tập là nguời học với sự giác ngộ về động cơ, mục đích của việc học đối với bản thân trở thành động lực thúc đẩy tiến hành hoạt động học tập. Chỉ khi nào nguời học say mê, tích cực học tập nhằm chiếm lĩnh đổi tượng thì mới thực sự là chủ thể đích thực của hoạt động học. Về cấu trúc, hoạt động học tập cũng bao gồm các thành tố cơ bản của hoạt động nói chung.
+ Nhu cầu học tập có những đặc điểm: Cũng như các loại nhu cầu khác ở người, nhu cầu học tập có những đặc điểm cơ bản là cường độ, tính chu kì của sự xuất hiện và phương thức thoả mãn. Một đặc điểm khác rất quan trọng, đặc biệt khi nói về nhân cách là nội dung đối tượng của nhu cầu. Những đặc điểm này thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau, với các mức độ khác nhau tạo nên những nét đặc trưng cho nhu cầu học tập của con người.
- Đặc điểm về cường độ của nhu cầu học tập:
Cường độ nhu cầu học tập là độ mạnh, độ gay gắt của những đòi hỏi về thông tin, về sự hiểu biết của con người. Cường độ nhu cầu học tập có thể được xem xét dưới các góc độ sau đây:
• Góc độ ý thức:
ày đã có trong kinh nghiệm truớc đây của con người. Điều đó có nghĩa là các động cơ thúc đẩy được hành vi học tập là nhờ nhu cầu học tập và kinh nghiệm cảm xúc trước đây về sự thoả mãn nhu cầu đó được gắn chặt với nhau theo một cách xác định, vì vậy, nhu cầu học tập càng gay gắt, những mối liên tưởng ngày càng mạnh thì ảnh huởng của động cơ học tập đến hành vi, hoạt động tương ứng càng lớn. Cường độ của động cơ học tập được biểu hiện trực tiếp ở mức độ của tính tích cực học tập. - Đặc điểm về phương thức thỏa mãn nhu cầu học tập: Như ta đã biết, cùng một nhu cầu, có thể được thoả mãn bằng những phương tiện, cách thức khác nhau. Nhưng việc thoả mãn nó bằng phương tiện, cách thức như thế nào lại liên quan mật thiết đến bản thân nhu cầu. Tùy theo phương tiện thoả mãn nào đó, nó có thể phát triển lên hoặc suy thoái đi, thậm chí biến chất đi. Sự biến hoá của nhu cầu hay những đặc điểm cơ bản của nhu cầu đều phụ thuộc vào thành phần sổ lượng và chất lượng của các phương tiện, phương thức thoả mãn nhu cầu. Là một nhu cầu cơ bản của con người, nhu cầu học tập có thể được thoả mãn bằng nhiều phương thức khác nhau như học tập, vui chơi, giải trí, giao tiếp, lao động, tự học... Trong đó các dạng hoạt động đó, nhu cầu học tập có chức năng kích thích hoạt động, đặc biệt là hoạt động nhận thức. Vì vậy nhu cầu học tập là nguồn gốc bên trong của tính tích cực nhận thức. Tính tích cực nhận thức là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể thông qua sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lí nhằm giải quyết những vấn đề học tập - nhận thức. Nó vừa là mục đích hoạt động, vừa là phương tiện, là điều kiện để đạt được mục đích, vừa là kết quả của hoạt động. Nó là phẩm chất hoạt động của cá nhân. Do đó, mức độ tích cực nhận thức của cá nhân quyết định trực tiếp kết quả hoạt động nhận thức cửa họ. + Cơ chế phát triển của nhu cầu học tập: - Mỗi lần thỏa mãn nhu cầu kiến thức lại nảy sinh nhu cầu mới về kiến thức ở mỗi học sinh, nhu cầu học tập phát triển phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện và phương thức thoả mãn nhu cầu ấy và nhu cầu học tập chỉ có thể được thoả mãn bằng hoạt động học tập. Biết được cơ chế này, người giáo viên phải thường xuyên tạo mọi điều kiện để thoả mãn nhu cầu của học sinh về kiến thức. - Thái độ học tập của học sinh ảnh hưởng lớn đến kết quả của quá trình dạy học. Nếu học sinh thiếu trách nhiệm, không tự giác, vô kỉ luật, lười biếng sẽ không bao giờ đạt được kết quả cao trong học tập. Giáo viên cần thường xuyên cảnh báo rằng, tính chất quan hệ này của trẻ trong học tập không cho phép các em nhận được kết quả tốt, thậm chí cả những em có năng lực tâm lí về trí tuệ tốt. - Nhu cầu cá nhân và động lực thúc đẩy (động cơ) học tập: Thực hiện động lực thúc đẩy học tập là khi học sinh dồn mọi nổ lực vào tìm hiểu sự kiện, hầu như thực hiện mục đích không chỉ vì phần thuởng mà điều quan trọng là tiếp nhận kiến thức sâu rộng của sự kiện để thoả mãn nhu cầu bản thân. Trong nghiên cứu “An Introduction to Motivation" (Tổng quan về động lực thúc đẩy) xuất bản năm 1964, Atkinson cho rằng, cá nhân có nhu cầu gặt hái thành tích thi thường có khuynh hướng cổ gắng, dù gặp khó khăn để đạt mục đích. Ngược lại, cá nhân có nhu cầu né tránh thất bại mạnh hơn mong muổn thành công thì những khó khăn nguy hiểm trên đường thực hiện mục đích sẽ đe dọa và động lực thúc đẩy ở đây sẽ yếu kém, không đủ khả năng để khuyến khích cá nhân hoàn thành mục đích. Nhu cầu học tập - là sự cần thiết đối với mọi học sinh nhằm hoàn thiện, trang bị những kiến thức chuyên môn, có mối quan hệ chặt chẽ với các nhu cầu khác. Nhu cầu học tập là nhu cầu bậc cao, thuộc về nhu cầu nhận thức, chi phối mạnh mẽ sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh. + Ý nghĩa của nhu cầu học tập trong hoạt động học tập: Trong hoạt động học tập, nhu cầu học tập là nguồn gốc tính tích cực nhận thức (học tập) của người học và ảnh hưởng lớn tới kết quả của hoạt động này. Tính tích cực học tập có ảnh hưởng trước tiên đối với hành động định hướng trong học tập của chủ thể. Trong hệ thống lí luận của P.Ia. Galperin, định hướng vừa là bước đầu tiên của hành động trí tuệ, vừa là hành động độc lập, kiểm tra và điều chỉnh trong suốt quá trình thực hiện hành động. Đây là khâu quyết định cả quá trình hành động, có vai trò quan trọng nhất trong cơ chế tâm lí của hành động. Chính ở đây, nhu cầu học tập tham gia vào hành động trí tuệ với chức năng hướng dẫn và kích thích hành động. Bởi lẽ “Nhu cầu chỉ có được chức năng hướng dẫn khi có sự gặp gỡ giữa chủ thể và khách thể. Muốn được vậy, đương nhiên chủ thể phải thực hiện một hoạt động tương ứng với khách thể mà trong đó có nhu cầu đối tượng hóa”. Rõ ràng khi nhu cầu học tập bắt gặp đối tượng thỏa mãn là tri thức, kĩ năng, kĩ xảo...thì nó lập tức biến thành động cơ thúc đẩy chủ thể tích cực tìm tòi, nhận thức, học tập. Nhu cầu học tập làm cho hành động định hướng mang tính tự giác hơn, diễn ra thuận lợi hơn. Không chỉ trong quá trình định hướng hành động, nhu cầu học tập còn có ảnh hưởng không nhỏ đối với quá trình thực hiện hành động. Nhu cầu học tập đóng vai trò như một đòn bẩy, một sức mạnh bên trong duy trì tính tích cực của chủ thể. Nhu cầu học tập với tư cách là một thành tố bên trong hướng dẫn, kích thích và điều chỉnh hoạt động học tập, là nguồn gốc tính tích cực học tập, lòng ham hiểu biết cũng như khát vọng nhận thức của người học, thúc đẩy người học thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ học tập. Việc thỏa mãn nhu cầu học tập là điều kiện thiết yếu đối với sự tồn tại, sự thành đạt, tự khẳng định của mỗi cá nhân, đồng thời làm cho nhu cầu nhận thức của họ không ngừng nâng cao về mức độ và cấp độ. Như vậy, nhu cầu học tập có mối quan hệ chặt chẽ với tính tích cực học tập và kết quả học tập. * Vận dụng: Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và truyền thông đóng vai trò không nhỏ trong sự phát triển chung của nhân loại. Con người nói chung và thế hệ trẻ nói riêng muốn hòa nhập vào cuộc sống hiện đại ngày nay đòi hỏi bản thân phải có kiến thức về Tin học. Ở bậc THPT môn Tin học còn là công cụ để học sinh học tốt hơn nhiều môn khác, giúp học sinh có cách học hiện đại hơn, hiệu quả hơn, mở mang thêm nhiều kiến thức. Ví dụ: việc vào Internet tìm kiếm thông tin có thể giúp học tốt hơn những môn như: Toán, Địa Lý, Lịch Sữ,(nhưng phải có giới hạn). Vì vậy, nhu cầu học tập môn Tin học là rất lớn đòi hỏi giáo viên phải là những người có tâm huyết, có chuyên môn cao cho việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ thích nghi tốt với công nghệ hiện đại. Trên tinh thần đó, từ năm 2011 đến nay hàng năm Tổ Tin học đều tổ chức dạy chứng chỉ A, B Tin học cho học sinh và mọi người vào dịp hè và đầu năm học. Hoạt động 2: Tìm hiểu động cơ và động cơ học tập của học sinh. Động lực (động cơ) là gì? Học sinh THPT có những động cơ học tập nào? 1. Động cơ Động cơ là đối tượng vật chất hay tinh thần, tư tưởng kích thích, thúc đẩy và định hướng hoạt động. Nguồn gốc lực kích thích của động cơ là nhu cầu. Hoạt động luôn có động cơ. Hoạt động có thể có một vài động cơ, khi đó nó hướng đến thỏa mãn cùng một lúc một số nhu cầu. Ngoài chức năng kích thích và định hướng hoạt động, động cơ còn thực hiện chức năng tạo ý, làm cho mục đích và một số đơn vị cấu trúc của hoạt động có được ý thức cá nhân nhất định và làm cho các tình huống tạo điều kiện hay ngăn trở việc thực hiện động cơ cũng có ý cá nhân. Hiệu quả và đặc điểm định tính của diễn biến phụ thuộc vào hoạt động được thúc đẩy bởi động cơ nào. Động cơ cũng xác định tính chất của các quá trình nhận thức và cơ cấu nội dung của tri giác, trí nhớ, tư duy,..Động cơ thường xuyên bị thay thế bởi nguyên nhân, chẳng hạn: lập luận hợp lý hành động không thể hiện những kích thích thực tế nhưng có thể trở thành động cơ thúc đẩy hoạt động. Con người càng nhận thức đầy đủ và chính xác động cơ, thì càng có khả năng chỉ đạo hành động của chính mình. Có thể hiểu động cơ là mong muốn của con người làm một cái gì đó. Đó là cái xung lực thúc đẩy con người hành động để thoả mãn nhu cầu. Đóng vai trò quan trọng đối với động cơ là mối quan hệ của nhu cầu và hứng thú, khát vọng và cảm xúc, tâm thế và lý tưởng. Vì vậy động cơ là một tổ chức vô cùng phức tạp, làm thành hệ thống động lực, trong đó có sự phân tích, đánh giá các giải pháp trái nhau, sự lựa chọn và ra quyết định. Động cơ thường mang tính hệ thống và có thứ bậc. Trong quá trình giáo dục, chúng ta không bao giờ chỉ gặp một động cơ hành động độc lập. Các động cơ cũng có sức ảnh hưởng không giống nhau đối với sự nảy sinh và kết quả của quá trình dạy học. Động cơ tạo ra tâm thế tích cực. Tâm thế tích cực càng cao, ý thức càng cao, hoạt động được khởi đầu càng hết mình thì khi bị ách tắt, hụt hẫng càng cao, càng đau, nó gây ra tâm trạng nặng nề, căng thẳng. 2. Động cơ học tập của học sinh THPT. Dựa trên cơ sở mối quan hệ của động cơ với động cơ học tập, có thể phân loại động cơ học tập như sau: + Động cơ học tập bao gồm động cơ hoàn thiện tri thức và động cơ quan hệ xã hội + Động cơ học tập bao gồm động cơ bên trong và động cơ bên ngoài. + Động cơ học tập bao gồm động cơ tạo ý và động cơ kích thích. Người ta còn có thể phân loại động cơ học tập thành động cơ được ý thức và không được ý thức, động cơ nhận thức và động cơ thực tế. Các cách phân loại động cơ trên được gọi bằng tên khác nhau, nhưng về bản chất không có sự khác nhau đặc biệt. Hoạt động học tập là một loại hình hoạt động đa động cơ được thúc đẩy bởi động cơ bên ngoài và động cơ bên trong. + Động cơ bên ngoài là những động cơ kích thích hoạt động học tập không liên quan trực tiếp tiếp đến hoạt động đó. Động cơ này không hiện thân vào đối tượng của hoạt động học. Đối tượng đích thực của hoạt động học chỉ là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản khác. Trong trường hợp động cơ ngoài chiếm ưu thế trong hệ thống động cơ học tập, học sinh thực hiện động cơ này chủ yếu nhằm thỏa mãn nhu cầu quan hệ xã hội như sự thưởng và phạt, đe dọa và yêu cầu, thi đua và áp lực, lòng hiếu danh, sự hài lòng của cha mẹ, thầy cô giáo hay sự khâm phục của bạn bè...và ngay cả sự trốn tránh thất bại cũng được xem như là xuất phát từ động cơ bên ngoài. + Động cơ bên trong là động cơ nhận thức là động cơ đặc thù, có ý nghĩa hơn. Động cơ bên trong là động cơ có liên quan trực tiếp với hoạt động nhận thức- là động cơ đích thực của hoạt động nhận thức- học tập. Trong hoạt động học tập, nếu động cơ này chiếm ưu thế thì học sinh có lòng khát khao mở rộng tri thức, mong muốn hiểu biết cái mới, hứng thú với quá trình giải quyết nhiệm vụ, với sự tìm kiếm cách giải quyết, hứng thú với kết quả đạt được. Chủ thể của hoạt động học tập thường không có những căng thẳng về tâm lý. * Vận dụng: Từ việc xác định động cơ học tập như: học sinh hệ GDTX học chứng chỉ A Tin học để được cộng điểm vào kỳ thi tốt nghiệp cuối cấp, học sinh các cấp còn lại học chứng chỉ Tin học nhằm nâng cao sự hiểu biết và tăng cường khả năng sử dụng các phần mềm ứng dụng trên máy tính, học Tin học để có thể tham gia và đạt giải trong các kỳ thi giải Toán, Tiếng Anh, trên máy tính, công nhân viên chức học chứng chỉ Tin học để đủ điều kiện cho công việc và đủ khả năng hội nhập. Giáo viên Tin học là người giúp các em và mọi người thực hiện được mục tiêu này. Hoạt động 3: Tìm hiểu các đặc điểm của động cơ học tập ở học sinh THPT Khi thực hiện hoạt động giáo dục, để có kết quả tốt giáo viên không những phải nắm rõ các yêu cầu kiến thức, có nhiều phương pháp khác nhau để truyền đạt các kiến thức đó đến học sinh của mình mà còn phải biết cách khơi dậy các thái độ, động cơ học tập cho học sinh của mình vì động cơ học tập không có sẵn hay tự phát, mà được hình thành dần dần trong quá trình học tập của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. Vậy đặc điểm cơ bản của động cơ học tập của học sinh THPT là gì? Theo các nhà nghiên cứu giáo dục thì một trong những đặc điểm cơ bản của động cơ học tập của học sinh THPT là sự xuất hiện ở học sinh hứng thú bền vững đối với môn học cụ thể. Hứng thú này không xuất hiện một cách tự nhiên ,bất ngờ gắn với một tình huống trong một bài học cụ thể mà nảy sinh dần dần khi tích lũy kiến thức và dựa vào logic bên trong .Có thể gọi đây là một dạng hứng thú nhận thức. Hứng thú nhận thức là nhận thức mang tính cảm xúc của hoạt động và trực tiếp gây ra động cơ. Hứng thú nhận thức chiếm vị trí lớn trong động cơ của các học sinh học giỏi. Những học sinh này có kì vọng lớn và xu hướng vươn lên chiếm lĩnh cái mới. Ở các em, động cơ học tập – nhận thức được củng cố, nổi bật là hứng thú đối với cách thức chiếm lĩnh tri thức. Động cơ tự giáo dục được nâng lên một trình độ cao hơn, dễ nhận thấy xu hướng tích cực của các em đối với hình thức độc lập của hoạt động học tập, xuất hiện hứng thú đối với phương pháp tư duy khoa học. Những học sinh yếu kém cũng có thể nhận thức được động cơ học tập của mình. Nội dung học tập đã lôi cuốn các em nhưng nhu cầu học tập bộc lộ còn yếu ,ở chúng bộc lộ động cơ “ lẫn tránh những khó chịu” và mức độ kì vọng không cao. Các thầy cô đánh giá thấp động cơ học tập của họ. Động cơ học tập của học sinh trung học phổ thông còn là chuẩn bị bước vào các trường chuyên nghiệp. Chọn nghề - đó là sự lựa chọn con đường sống, tìm vị trí của mình trong xã hội mà nó đòi hỏi kĩ năng phân tích khả năng,thiên hướng, tri thức, năng lực quyết định và hành động. Việc chọn trường thi, khối thi đại học và cao đẳng có ảnh hưởng không nhỏ tới nhu cầu – động cơ học tập của học sinh THPT. - Nhu cầu - động cơ học tập cửa học sinh THPTcòn phụ thuộc vào thiên hướng, vào dạng trí tuệ của các em. Theo lí thuyết của Howard Gardner, có dạng trí tuệ sau: - Trí tuệ ngôn ngữ: Đó là khả năng sử dụng một cách có hiệu quả các từ ngữ, hoặc bằng phát âm (như một người kể chuyện, một thuyết khách hay một nhà chính trị), hoặc bằng chữ viết (như một nhà thơ, nhà soạn kịch, ............). Dạng trí tuệ này bao gồm khả năng xử lí văn phạm hay cẩu trúc ngôn ngữ, khoa phát âm hay âm thanh, âm tiết của ngôn ngữ; nội dung hay ý nghĩa của ngôn ngữ, quy mô thực tế hay công dụng thiết thực của ngôn ngữ. - Trí tuệ lôgic - toán học: Đó là khả năng sử dụng có hiệu quả các con số (như nhà toán học, người lập biểu thuế, nhà thống kê) và để lí luận thông thạo (như nhà khoa học, lập trình viên máy tính hay nhà lôgic học). Dạng trí tuệ này bao gồm tính nhạy cảm với các quan hệ và các sơ đồ logic, các mệnh đề và tỉ lệ thức (nếu - thì, nguyên nhân - hệ quả) các hàm số và các dạng trừu tượng hoá có liên quan. Các loại quá trình ứng dụng trong dịch vụ trí tuệ lôgic - toán học bao gồm thuật xếp loại, phân lớp, suy luận, khái quát hoá, tính toán và kiểm nghiệm giả thuyết. - Trí tuệ không gian: Đó là khả năng tiếp nhận một cách chính xác thế giới không gian qua nhìn (ví dụ, của một người đi săn, một hướng đạo sinh hay một người dẫn đường) và thực hiện thành thạo các hoạt động thay hình đổi dạng trên cơ sở các năng khiếu đó (chẳng hạn với tư cách một nhà trang trí nội thất một kiến trúc sư, một nghệ sĩ hay một nhà phát minh). Dạng trí tuệ này liên hệ chặt chẽ với tính nhạy cảm về màu sắc, đường nét và hình dạng và các tương quan vốn có giữa những yếu tố đó. Dạng trí tuệ này bao gồm khả năng nhìn, khả năng thể hiện bằng đồ thị và các ý tưởng về không gian thị giác và cả khả năng tự định hướng một cách thích hợp trong một ma trận không gian. - Trí tuệ hình thể động năng: Đó là sự thành thạo trong việc sử dụng toàn bộ cơ thể để thể hiện các ý tưởng và cám xúc (chẳng hạn như một diễn viên kịch, một tài tử kịch câm, một lực sĩ hoặc một diễn viên múa) cũng như sự khéo léo trong việc sử dụng hai bàn tay để sản xuất hay biến đổi sự vật (chẳng hạn như một nghệ nhân, một nhà điêu khắc, một thợ cơ khí hay một bác sĩ phẫu thuật). Dạng trí tuệ này bao gồm các kỉ năng cơ thể đặc biệt như sự phối hợp cử động, khả năng giữ thăng bằng, sự khéo tay, sức mạnh cơ bắp, sự mềm dẽo (tài uốn éo) và tốc độ, cũng như các năng khiếu tự cảm, sờ mó, chẩn đoán bằng tay. -Trí tuệ âm nhạc: Đó là khả năng cảm nhận (như người mê nhạc), phân biệt (như nhà phê bình âm nhạc), biến đổi (như nhà soạn nhạc) và thể hiện (như một nhạc công) các hình thức âm nhạc. Dạng trí tuệ này bao gồm tính nhạy cảm đối với nhịp điệu, âm sắc trầm bổng, âm tần của một bản nhạc. Một người có thể nắm bắt âm nhạc một cách chung chung, tổng quát “từ trên xuống dưới" (sành nhạc theo lối trục giác) hoặc nắm bắt âm nhạc một cách chính quy, có bài bản, “từ dưới lên trên” (sành nhạc theo lối phân tích, qua nhạc lí). Trí tuệ âm nhạc còn có thể là một kết hợp của hai dạng thuờng thức vừa kể trên. -Trí tuệ giao tiếp: Đó là khả năng cảm nhận và phân biệt giữa các tâm trạng, ý đồ, động cơ và cảm nghĩ của người khác. Dạng trí tuệ này bao gồm năng khiếu nắm bắt những thay đổi về nét mặt, giọng nói, động tác, tư thế; khả năng phân biệt các biểu hiện giao lưu giữa người và người và đáp ứng các biểu hiện đó một cách thích hợp, thiết thực (chẳng hạn tác động định hướng cho một nhóm người hưởng ứng một đường lối hành động nào đó ). -Trí tuệ nội tâm: Đó là khả năng hiểu biết bản thân và hành động một cách thích hợp trên cơ sở tự hiểu mình. Dạng trí tuệ này bao gồm khả năng có một hình ảnh rõ nét về mình (về các ưu điểm, hạn chế và nhược điểm của chính mình), ý thức đầy đủ và đúng về tâm trạng, ý đồ, động cơ, tính khí và ước ao của riêng mình, kèm theo khả năng tự kiềm chế, tự kiểm soát (tính kỉ luật, tự kỉ), lòng tự trọng. -Trí tuệ tự nhiên học: Đó là năng khiếu nắm bắt, nhận dạng và phân loại các loài đông đảo (thực vật chí và động vật chí) có mặt trong môi trường sống của chúng ta. Dạng trí tuệ này cũng bao gồm sự nhạy cảm đối với các hiện tượng thiên nhiên (chẳng hạn, sự hình thành mây, sự tạo núi...).Đối với những ai sống trong môi trường đô thị, đó còn là năng khiếu phân biệt giữa các vật bất động, vô tri như xe cộ, giầy thể thao và vỏ bọc ngoài (bìa), đĩa CD... Động cơ học tập của học sinh THPT còn là mong muốn tìm vị trí của mình trong số bạn bè, là sự thi đua với các bạn trong lớp, trong trường, là sự noi gương những người đi trước và cả sự giữ gìn danh dự truyền thống của gia đình, dòng họ, của nhà trường..Trong tâm lí học gọi đây là những động cơ bên ngoài, song nó cũng là động lực thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động học tập của học sinh. Động cơ học tập – nhận thức với tư cách là những tổ chức cá nhân mới của quá trình dạy học. Chương trình dạy học, con đường và hình thức phải phù hợp với mức độ động cơ học tập - nhận thức và cho phép chuyển hóa chúng vào động cơ tự giáo dục và tự phát triển bền vững. Động cơ học tập có vai trò rất quan trọng, nó là nguồn động lực và là kim chỉ nam cho hoạt động học. Vậy thì chúng ta phải làm gì để hình thành và kích thích động cơ học tập cho học sinh đặc biệt là học sinh THPT? * Vận dụng: Nhu cầu và động cơ học tập môn Tin học thể hiện ở lòng ham muốn hiểu biết và khám phá những điều mới lạ để phục vụ cho cuộc sống trong hiện tại và tương lai. Khi nhu cầu học tập rõ ràng thì động cơ học tập sẽ tích cực. Khi động cơ học tập tích cực sẽ dẫn tới hứng thú trong học tập .Dạy học là quá trình giáo viên với vai trò chủ đạo là tổ chức học tập cho học sinh. Bản thân tôi là một giáo viên, tôi tự nhận thấy nếu muốn học sinh hứng thú trong học tập, giáo viên phải giúp học sinh thấy được tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của Tin học đối với sự phát triển của nhân loại cũng như của bản thân mỗi người. Ví dụ: Ngày nay hầu hết ở những công ty, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, ngân hàng,đều có văn phòng điện tử và ngày càng nhiều nơi hình thành văn phòng không giấy, viết. Các em muốn sống, làm việc trong môi trường hiện đại đó và không muốn bị xã hội đào thải thì đòi hỏi bản thân phải tự giác học hỏi để trao dồi kiến thức Tin học. Hoạt động 4: Tìm hiểu phương pháp và kĩ thuật xác định nhu cầu và động cơ học tập của học sinh trung học phổ thông 1. Tìm hiểu nhu cầu, động cơ - học tập qua quan sát hoạt động học tập của học sinh Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập, tính tích cực nhận thức - biểu hiện của nhu cầu học tập của học sinh thường bộc lộ qua các dấu hiệu sau: - Có chú ý học tập hay không? - Có hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập hay không? (phát biểu ý kiến xây dựng bài, ghi c
File đính kèm:
- bai_thu_hoach_boi_duong_thuong_xuyen_giao_vien_module_13_vai.doc