Bài thu hoạch Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên - Module 1: Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THCS - Năm học 2019-2020 - Bùi Khắc Đạt

 * Giao tiếp với người lớn

 - Thứ nhất: các em có nhu cầu được tôn trọng cao trong quá trình giao tiếp với người lớn. Các em đòi hỏi được bình đẳng, tôn trọng, được đối xử như người lớn, được hợp tác, cùng hoạt động với người lớn. Nếu người lớn ra lệnh với các em thì bằng cách này hay cách khác sẽ xuất hiện thái độ phản ứng tiêu cực, công khai hoặc ngấm ngầm. Mặt khác, các em có khát vọng độc lập, được khẳng định, không thích sự quan tâm, can thiệp của người lớn, không thích có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của người lớn. Rất dễ dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, xung đột trong gia đình (lời nói, việc làm, bỏ nhà ra đi )

 - Thứ hai: trong quan hệ với người lớn, ở thiếu niên thường xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Do sự phát triển mạnh về thể chất và tâm lý nên trong quan hệ với người lớn, thiếu niên có nhu cầu thoát ly khỏi sự giám sát của người lớn, muốn độc lập. Tuy nhiên do địa vị còn lệ thuộc, do chưa có nhiều kinh nghiệm ứng xử và giải quyết vấn đề liên quan trực tiếp tới hoạt động và tương lai cuộc sống nên các em vẫn có nhu cầu được người lớn gần gũi, chia sẻ và định hướng cho mình, làm gương để mình noi theo. Mặt khác, là mâu thuẫn giữa sự phát triển nhanh, bất ổn định về thể chất, tâm lý và vị thế xã hội của trẻ em với nhận thức và hành xử của người lớn không kịp sự thay đổi đó. Vì vậy, người lớn vẫn thường có thái độ và cách cư xử với các em như với trẻ nhỏ.

 

doc9 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 588 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài thu hoạch Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên - Module 1: Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THCS - Năm học 2019-2020 - Bùi Khắc Đạt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG THCS NGUYỄN HUỆ
TỔ TỰ NHIÊN
 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 Độc lập – Tự do- Hạnh phúc
 IaDin, ngày 30 tháng 05  năm 2020
BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN 
NĂM HỌC 2019 – 2020
 THÔNG TIN CÁ NHÂN
	Họ và tên: BÙI KHẮC ĐẠT
	Năm sinh: 01/08/1976; Năm Ngày vào ngành: 12/11/2003
	Trình độ đào tạo: Đại học; Chuyên ngành: VẬT LÝ
 Tổ chuyên môn :Tự nhiên
	Nhiệm vụ được giao: Trưởng ban thanh tra nhân dân.
	Giảng dạy môn: Vật lý khối 9, vật lý khối 7, công nghệ khối 9, chủ nhiệm lớp 9B.
MODULE 1: ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÍ CỦA HỌC SINH THCS
 I. Khái quát về giai đoạn phát triển của học sinh THCS.
 - Lứa tuổi HS THCS bao gồm những em có độ tuổi tù 11 - 15 tuổi. Đó là những em đang theo học tù lớp 6 đến lớp 9 ở trường THCS. Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu nìên và nó có một vị trí đặc biệt trong quá trình phát triển của trẻ em.
 - Đây là thời kì quá độ từ tuổi thơ sang tuổi trường thành, thời kì trẻ ở ba đường của sụ phát triển. Trong đó có rất nhiều khả năng, nhiều phương án, nhiều con đường để mỗi trẻ em trở thành một cá nhân. Trong thời kì này, nếu sự phát triển đuợc định huớng đúng, được tạo thuận lợi thì trẻ em sẽ trở thành cá nhân thành đạt, công dân tốt. Ngược lại, nếu không được định hướng đúng, bị tác động bởi các yếu tố tiêu cực thì sẽ xuất hiện hàng loạt nguy cơ dẫn trẻ em đến bên bờ của sự phát triển lệch lạc về nhận thức, thái độ, hành vi và nhân cách.
 - Thời kì mà tính tích cực xã hội của trẻ em được phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong việc thiết lập các quan hệ bình đẳng với người lớn và bạn ngang hàng. Trong suổt thời kì tuổi thiếu niên đều diễn ra sự cấu tạo lại, cải tổ lại, hình thành các cấu trúc mới về thể chất về sinh lí. Tuổi thiếu niên là giai đoạn khó khăn, phúc tạp và đầy mâu thuẫn trong quá trình phát triển.
II. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THCS 
 a. Tìm hiểu hoạt động giao tiếp của học sinh THCS: Giao tiếp là hoạt động chủ đạo của các em. Lứa tuổi này có những sự thay đổi rất cơ bản trong giao tiếp của các em với người lớn và với bạn ngang hàng. 
 * Giao tiếp với người lớn
 - Thứ nhất: các em có nhu cầu được tôn trọng cao trong quá trình giao tiếp với người lớn. Các em đòi hỏi được bình đẳng, tôn trọng, được đối xử như người lớn, được hợp tác, cùng hoạt động với người lớn. Nếu người lớn ra lệnh với các em thì bằng cách này hay cách khác sẽ xuất hiện thái độ phản ứng tiêu cực, công khai hoặc ngấm ngầm. Mặt khác, các em có khát vọng độc lập, được khẳng định, không thích sự quan tâm, can thiệp của người lớn, không thích có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của người lớn. Rất dễ dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, xung đột trong gia đình (lời nói, việc làm, bỏ nhà ra đi)
 - Thứ hai: trong quan hệ với người lớn, ở thiếu niên thường xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Do sự phát triển mạnh về thể chất và tâm lý nên trong quan hệ với người lớn, thiếu niên có nhu cầu thoát ly khỏi sự giám sát của người lớn, muốn độc lập. Tuy nhiên do địa vị còn lệ thuộc, do chưa có nhiều kinh nghiệm ứng xử và giải quyết vấn đề liên quan trực tiếp tới hoạt động và tương lai cuộc sống nên các em vẫn có nhu cầu được người lớn gần gũi, chia sẻ và định hướng cho mình, làm gương để mình noi theo. Mặt khác, là mâu thuẫn giữa sự phát triển nhanh, bất ổn định về thể chất, tâm lý và vị thế xã hội của trẻ em với nhận thức và hành xử của người lớn không kịp sự thay đổi đó. Vì vậy, người lớn vẫn thường có thái độ và cách cư xử với các em như với trẻ nhỏ.
 - Thứ ba: trong tương tác với người lớn, thiếu niên thường cường điệu hóa các tác động của người lớn trong ứng xử hằng ngày. Các em thường suy diễn, thổi phồng, cường điệu hóa quá mức tầm quan trọng của các tác động đó, đặc biệt là đến danh dự và lòng từ trọng của các em. Trong khi đó, hành vi của chính các em có thể gây hậu quả đến tính mạng mình lại thường bị các em coi nhẹ. Vì vậy, chỉ cần một sự tác động của người lớn làm tổn thương chút ít đến các em thì trẻ thiếu niên coi đó là sự xúc phạm lớn, sự tổn thất tinh thần nghiêm trọng, từ đó dẫn đến các phản ứng tiêu cực cường độ mạnh.
 * Giao tiếp giữa thiếu niên với nhau:
 - Ở tuổi thiếu niên, giao tiếp với bạn trở thành một hoạt động riêng và chiếm vị trí quan trọng trong đời sống các em. Nhiều khi giá trị này cao đến mức đẩy lùi học tập xuống hàng thứ 2 và làm cho các em sao nhãng việc giao tiếp với người thân. Các em giao tiếp với bạn để khẳng định mình, trao đổi những nhận xét, tình cảm, ý chí, tâm tư, khó khăn của mình trong quan hệ với bạn, với người lớn. các em mong muốn có bạn thân để chia sẻ, giải bày tâm sự, vướng mắc, băn khoăn.
 - Trong cuộc sống hằng ngày, các em không thể không có bạn. Sự tẩy chay của bạn bè, của tập thể có thể thúc đẩy các em sửa chữa để hòa nhập với bạn, cũng có thể làm cho các em tìm kiếm và gia nhập nóm bạn ngoài đường; hoặc nảy sinh các hành vi tiêu cực như phá phách, gây hấnhoặc cũng có thể khiến các em cảm thấy bế tắc và chán nản.
 - Thiếu niên coi quan hệ với bạn là quan hệ riêng cá nhân và các em muốn được độc lập, không muốn người lớn can thiệp. Người bạn kết giao phải là người tôn trọng, trung thực, cởi mở, hiểu biết và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Thiếu niên yêu cầu rất cao về phía bạn cũng như bản thân. Vì vậy, các em thường lên án những thái độ và hành vi từ chối giúp bạn, ích kỷ, tham lam, tự phụ, hay nói xấu bạn, nịnh bợ...
 - Dậy thì kích thích sự quan tâm đến bạn khác giới. Xuất hiện những rung động, những cảm xúc mới lạ với bạn khác giới. Sự quan tâm đến bạn khác giới có ý nghĩa đối với sự phát triển nhân cách HS THCS. Trong giao tiếp với bạn khác giới, các em cũng thể hiện mâu thuẫn giữa ý muốn, nhu cầu với hành vi thể hiện (có nhu cầu giao tiếp với bạn khác giới nhưng lại cố ngụy trang ý muốn, che giấu nội tâm của mình). Các bạn nam thể hiện khá mạnh mẽ, đôi khi còn thô bạo, “gây sự” với bạn nữ để bạn chú ý tới mình. Các em nữ thường kín đáo, tế nhị hơn (các em thường chú ý đến hình thức của mình, trang phục, cách ứng xử, che giấu, tình cảm của mình)
 b. Tìm hiểu sự phát triển về nhận thức của học sinh THCS.
 * Sự phát triển tri giác: Ở HS THCS, khối lượng các đối tượng tri giác tăng lên rõ rệt. Tri giác có trình tự, có kế hoạch và hoàn thiện hơn. Các em có khả năng phân tích và tổng hợp phức tạp khi tri giác sự vật, hiện tượng. 
Sự tri giác của HS còn 1 số hạn chế: thiếu kiên trì, còn vội vàng, hấp tấp trong tri giác, tính tổ chức, tính hệ thống trong tri giác còn yếu.
 * Sự phát triển trí nhớ: Ghi nhớ chủ định, ghi nhớ ý nghĩa, ghi nhớ logic dần được chiếm ưu thế hơn ghi nhớ máy móc. Nếu trước đây các em học sinh tiểu học thường cố gắng ghi nhớ từng chữ từng bài thì bây giờ học sinh THCS thường phản đối yêu cầu của giáo viên bắt học thuộc lòng và có khuynh hướng muốn tái hiện bằng lời nói của mình.
 * Sự phát triển chú ý: Chú ý có chủ định phát triển mạnh. Sức tập trung chú ý cao hơn, khả năng duy trì chú ý được lâu bền hơn so với nhi đồng, khả năng di chuyển sự chú ý từ thao tác này đến thao tác kia cũng được tăng cường. Chú ý của các em phụ thuộc vào tính chất đối tượng và mức độ hứng thú với đối tượng. Chính vì thế các em có thể tập trung vào giờ học này nhưng lại lơ đễnh vào giờ khác.
 * Sự phát triển tư duy: Chuyển từ tu duy cụ thể sang tư duy trừu tượng. Đầu cấp THCS thì tư duy cụ thể vấn phát triển mạnh và giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc tư duy. Sang cuối cấp THCS, tư duy trừu tượng phát triển mạnh. Biết phân tích tài liệu một cách đầy đủ, sâu sắc, đi vào bản chất.
 * Sự phát triển tưởng tượng và ngôn ngữ: Ngôn ngữ của HS THCS đang phát triển mạnh, vốn từ tăng lên rõ rệt. Ngôn ngữ phức tạp hơn, từ vựng phong phú, logic chặt chẽ hơn. Tuy nhiên còn hạn chế: khả năng dùng từ để biểu đạt ý nghĩa còn hạn chế, các em dùng từ chưa chính xác, chưa chú ý cách diễn đạt theo cấu trúc ngữ pháp chặt chẽ, một số em thích dùng từ cầu kỳ bóng bẩy nhưng sáo rỗng. 
 c. Tìm hiểu sự phát triển nhân cách của học sinh THCS.
 * Tự ý thức: Bắt đầu tự nhận thức những hành vi của mình (từ hành vi riêng lẻ toàn bộ hành vi và nhận thức về phẩm chất đạo đức, tích cách và khả năng). Nhu cầu so sánh mình với người khác, xem xét và muốn vạch ra một nhân cách tương lai. Đánh giá khả năng bản thân, tìm kiếm vị trí của mình trong tập thể.
 * Sự phát triển nhận thức đạo đức và hành vi ứng xử của học sinh THCS:
 - Tuổi THCS là tuổi hình thành thế giới quan, lý tưởng, niềm tin đạo đức, những phán đoán giá trịDo sự mở rộng các quan hệ xã hội, sự phát triển tự ý thức, đạo đức của các em phát triển mạnh. HS biết cách sử dụng những nguyên tắc riêng, các quan điểm, các sáng kiến để chỉ đạo hành vi.
 - Có một số kinh nghiệm và khái niệm đạo đức đuợc hình thành tự phát ngoài sự hướng dẫn của giáo dục (sách báo, phim ảnh, bạn bè) do đó các em có thể có những ngộ nhận, hiểu biết phiến diện, không chính xác về các khái niệm đạo đức. Cần lưu ý điều này trong giáo dục đạo đức cho các em.
 * Sự hình thành tình cảm: Tình cảm: dễ xúc động, kích động, thất thường, bồng bột, dễ thay đổi, đôi khi còn mâu thuẫn. Tình cảm bạn bè, tình đồng chí, tình tập thể ở lứa tuổi này phát triển mạnh. Các em đối xử với nhau chân thành, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn. Các em tin tưởng và kể cho nhau nghe những câu chuyện thầm kín. Các em không thể không có bạn. Vì thế khi bị bạn phê bình các em cảm thấy khổ tâm, buồn phiền, đặc biệt những em bị bạn bè không chơi, tẩy chay thì đó là một đòn tâm lý nặng nề đối với các em.
 d. Sự phát triển cơ thể: Bước vào tuổi thiếu niên có sự cải tổ lại hết sức mạnh mẽ và sâu sắc về cơ thể, về sinh lí. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển cơ thể của cá nhân. Đây là giai đoạn phát triển nhanh thứ hai, sau giai đoạn sơ sinh. 
 * Sự phát triển của chiều cao và trọng lượng: Chiều cao của các em tăng rất nhanh: trung bình một năm, các em gái cao thêm 5 - 6 cm, các em trai cao thêm 7 - 8 cm. Trọng lượng của các em tăng từ 2 - 5kg/năm.
 * Sự phát triển của hệ xương:
 - Hệ xương đang diễn ra quá trình cốt hóa về hình thái, làm cho thiếu niên lớn lên rất nhanh, xương sọ phần mặt phát triển mạnh. Ở các em gái đang diễn ra quá trình hoàn thiện các mảnh xương chậu (chứa đựng chức năng làm mẹ sau này) và kết thúc vào tuổi 20 – 21. Bởi vậy, cần tránh cho các em đi giày, guốc cao gót, tránh nhảy quá cao để khỏi ảnh hưởng đến chức năng sinh sản của các em. Mặc khác trong sự phát triển hệ xương chân, xương tay phát triển nhanh nhưng xương cổ tay và các đốt ngón tay chưa hoàn thiện nên các thao tác hành vi ở các em còn lóng ngóng, làm gì cũng đổ vỡ, hậu đậu. Sự mất cân đối này sẽ diễn ra trong thời gian ngắn, cuối tuổi thiếu niên sự phát triển thể chất sẽ êm ả hơn.
 * Sự xuất hiện của tuyến sinh dục (hiện tượng dậy thì):
 - Sự trưởng thành về mặt sinh dục là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển cơ thể của lứa tuổi thiếu niên.
 + Dấu hiệu dậy thì ở em gái là sự xuất hiện kinh nguyệt, sự phát triển tuyến vú. Ở em trai là hiện tượng “vỡ giọng”, sự tăng lên của thể tích tinh hoàn và bắt đầu có hiện tượng “mộng tinh”. Tuổi dậy thì ở các em gái Việt Nam vào khoảng 12 – 14 tuổi, ở các em trai bắt đầu và kết thúc chậm hơn các em gái khoảng từ 1,5 đến 2 năm. Dấu diệu phụ báo tuổi dậy thì có sự khác nhau giữa các em trai và gái. Các em trai cao rất nhanh, giọng nói ồm ồm, vai to, có ria mép Các em gái cũng lớn nhanh, thân hình duyên dáng, da dẻ hồng hào, tóc mượt mà, môi đỏ, giọng nói trong trẻo
Sự xuất hiện tuổi dậy thì phụ thuộc yếu tố khí hậu, thể chất, dân tộc, chế độ sinh hoạt (vật chất, tinh thần), lối sống Tuy nhiên, hiện nay do gia tốc phát triển thể chất và phát dục nên tuổi dậy thì có thể đến sớm hơn từ 1,5 – 2 năm.
 + Sự phát dục và những biến đổi trong sự phát triển thể chất của tuổi thiếu niên có ý nghĩa quan trọng đối với sự xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới. Những biến đổi rõ rệt về mặt giải phẫu sinh lý đối với thiếu niên đã làm cho các em trở thành một người lớn một cách khách quan và làm nảy sinh cảm giác về tính người lớn của bản thân các em. Sự phát dục làm cho thiếu niên xuất hiện những cảm giác, tình cảm và rung cảm mới mang tính chất giới tính, các em quan tâm nhiều hơn đến bạn khác giới.Tuy nhiên, những ảnh hưởng trên đến sự phát triển tâm lí của HS THCS còn phụ thuộc nhiều yếu tố: kinh nghiệm sống, đặc điểm giao tiếp của thiếu niên, những hoàn cảnh riêng trong cuộc sống và điều kiện giáo dục (gia đình và nhà trường) đối với các em.
III. Vận dụng kiến thức lí thuyết vào thực tiễn.
 Bản thân tôi đang là giáo viên, tôi đã hiểu sâu hơn tâm sinh lí của các em học sinh trong lớp chủ nhiệm và học sinh của nhà trường. Từ học tập kiến thức lí thuyết tôi đã áp dụng vào việc tìm hiểu, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các em học sinh thông qua những việc làm sau: Đối với học sinh lớp luôn quan tâm và tìm hiểu hoàn cảnh và những thay đổi, những tác động của gia đình đến học sinh của lớp. Thông qua các giờ học tôi thường giúp các em học sinh xác định rõ động cơ học tập để các em tự giác trong học tập và rèn luyện. Trong các giờ vui chơi tôi thường dạy cho các em những bài học đạo đức nhỏ như biết cách chào hỏi lễ phép, cách ăn uống lịch sự, biết nói lời xin lỗi, lời cảm ơn trong những tình huống khác nhau của cuộc sống.
MODULE 3: GIÁO DỤC HỌC SINH THCS CÁ BIỆT
I. Phương pháp thu thập thông tin về HS cá biệt
 Đầu năm học GVCN phải nắm được đặc điểm học sinh cá biệt về: sức khỏe, năng lực học tập, động cơ học tập, quan hệ của học sinh với cha mẹ, Ông bà, anh chị em trong gia đình, ở trường với thầy cô và ngoài xã hội, cộng đồng. Liên kết và phối hợp có hiệu quả giữa nhà trường, đại diện là GVCN với địa phương trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. Cộng tác chặt chẽ với CMHS, chủ động phối hợp với giáo viên bộ môn, đoàn TNCS HCM, đội TNTP HCM, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giáo dục đạo đức học sinh cá biệt. Xây dựng những truyền thống tốt đẹp của lớp, các hoạt động của lớp sẽ trở thành truyền thống nếu nó được lặp đi lặp lại và trở thành thói quen. Phải trân trọng truyền thống sẳn có của lớp, tiếp tục xây dựng truyền thống mới cho lớp trong điều kiện cụ thể.
II. Phương pháp giáo dục HS cá biệt
 1. Phương pháp thuyết phục
 Là những phương pháp tác động vào lý trí tình cảm của học sinh để xây dựng những niềm tin đạo đức, gồm các nội dung sau: Giảng giải về đạo đức: được tiến hành trong giờ dạy môn giáo dục công dân cũng như trong các giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt dưới cờ Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể chuyện, đọc sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói chuyện, nêu gương tốt của giáo viên và học sinh trong trường. Trò chuyện với học sinh hoặc nhóm học sinh để khuyến khích động viên những hành vi cử chỉ đạo đức tốt của các em, khuyên bảo, uốn nắn những mặt chưa tốt.
2. Phương pháp rèn luyện 
 Là những phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn luyện cho các em những thói quen đạo đức, thể hiện được nhận thức và tình cảm đạo đức của các em thành hành động thực tế: Rèn luyện thói quen đạo đức thông qua các hoạt động cơ bản của nhà trường như dạy học trên lớp, lao động, hoạt động xã hội đoàn thể và sinh hoạt tập thể. Rèn luyện đạo đức thông qua các phong trào thi đua trong nhà trường là biện pháp tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích thích bên trong của học sinh, làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành người có đạo đức tốt, vì vậy nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua và động viên học sinh tham gia tốt phong trào này. Rèn luyện bằng cách chuyển hướng các hoạt động của học sinh từ hoạt động có hại sang hoạt động có ích, phương pháp này dựa trên đặc tính ham hoạt động của trẻ và được dùng để giáo dục học sinh bỏ một thói hư xấu nào đó bằng cách gây cho học sinh hứng thú với một hoạt mới bổ ích, lôi kéo trẻ ra ngoài những tác động có hại.
3. Phương pháp thúc đẩy
 Là phương pháp dùng những tác động có tính chất “ cưỡng bách đạo đức bên ngoài ” để điều chỉnh, khuyến khích những “ động cơ kích thích bên trong” của học sinh nhằm xây dựng đạo đức cho học sinh. Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những yêu cầu với học sinh, vừa là những điều lệnh có tính chất mệnh lệnh đòi hỏi học sinh tuân theo để có những hành vi đúng đắn theo yêu cầu của nhà trường. Khen thưởng: là tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học sinh làm cho bản thân học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em khác noi theo. Xử phạt, phê phán những khiếm khuyết của học sinh, là tác động có tính chất cưỡng bách đến danh dự lòng tự trọng của cá nhân học sinh để răn đe những hành vi thiếu đạo đức và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó và những học sinh khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực, không được lạm dụng phương pháp này. Khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai lầm, khuyết điểm, thấy hối hận và đặc biệt sau đó phải theo dõi, giúp đỡ, động viên học sinh sửa chữa khuyết điểm, cần phải tỏ rõ thái độ nghiêm khắc nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo đánh đập, xỉ nhục hoặc các nhục hình xúc phạm đến thân thể học sinh.
III. Phương pháp đánh giá kết quả rèn luyện của HS cá biệt 
 - Nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn GDCD ở trường THCS: Môn GDCD có vai trò, vị trí rất quan trọng trong giáo dục nhân cách học sinh cá biệt, đặc biệt trong việc xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học sinh THCS, vì thông qua các bài học người giáo viên sẽ trang bị, hình thành cho học sinh những phẩm chất, những chuẩn mực, hành vi đạo đức cần thiết trong cuộc sống một cách có hệ thống, đúng phương pháp, đúng quy trình. Làm cho Cha mẹ học sinh, cán bộ giáo viên của trường nhận thức một cách đầy đủ về tầm quan trọng của môn GDCD đối với công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt trong giai đoạn hiện nay, để từ đó họ có sự thay đổi nhận thức và có những hành động tích cực đối với việc dạy và học môn GDCD. Giáo viên là lực lượng quyết định việc nâng cao chất lượng giáo dục, do đó giáo viên nhất là giáo viên dạy GDCD phải được đào tạo chính quy đúng chuyên ngành giảng dạy, phải thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, phải có nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của môn GDCD, phải xác định được trách nhiệm của bản thân, chú trọng đầu tư cho giảng dạy. Đổi mới kiểm tra, đánh giá môn GDCD là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt. 
 - Đổi mới công tác chủ nhiệm: GVCN có vai trò rất to lớn trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt, vì GVCN là người quản lý toàn diện học sinh của lớp được phụ trách, là cầu nối giữa Ban giám hiệu với các tổ chức trong nhà trường, các giáo viên bộ môn với tập thể lớp, là người cố vấn tổ chức các hoạt động tự quản của lớp, đồng thời là người đứng ra phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của trường.
 - Đối với GVBM, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường: Tích cực hỗ trợ GVCN trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt, phản ánh kịp thời với GVCN về tình hình học sinh của lớp. Tham gia đóng góp ý kiến trong việc đánh giá xếp loại Hạnh kiểm, xét kỷ luật học sinh.
* Tóm lại: Nghiên cứu, tìm giải pháp khả thi về giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt bậc THCS sẽ giúp cho đội ngũ giáo viên và CBQL trường học xác định đúng tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức học sinh cá biệt để có kế hoạch hoàn chỉnh, có sự quan tâm đúng mức trong việc giáo dục học sinh, từ đó giúp cho tập thể sư phạm của trường thấy được nhiệm vụ quan trọng này để ngoài việc dạy chữ cho tốt còn phải hết lòng giáo dục các em phát triển toàn diện cả tài lẫn đức. 
 Người thực hiện
 Bùi Khắc Đạt

File đính kèm:

  • docbai_thu_hoach_boi_duong_thuong_xuyen_giao_vien_module_1_dac.doc