100 trò chơi dân gian

50. Trò chơi: NÉM LON

• Cách chơi:

Chuẩn bị những quả banh nhỏ và một số lon sữa bò. Lon sữa bò xếp lên nhau theo hình tháp.vạch một đường mức cách dãy lon một khoảng cố định. Chia cho mỗi đội ba trái banh.

• Luật chơi:

Đội nào chọi hết số banh và có số lon ngã nhiều hơn là thắng.

Đội nào đứng ném lon mà chân chạm mức là không tính.

 

doc50 trang | Chia sẻ: dungnc89 | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu 100 trò chơi dân gian, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể biết được một trong hai người ai là người được ưu tiên thì với trò Sình Sầm dễ phân biệt trước sau. Những vật dụng được thể hiện qua bàn tay :
- Cái Búa: nắm các ngón tay lại như quả đấm
- Cái Kéo: nắm 3 ngón tay gồm có ngón cái, ngón áp út, và ngón út lại, và xèo 2 ngón tay còn lại (ngón trỏ, ngón giữa) ta có hình cái Kéo
- Cái Bao: xòe cả 5 ngón tay ra .
Luật chơi: Cái Búa thì đập cái kéo, cái kéo thì cắt cái bao, cái bao thì chùm được cái búa
Khi cả hai cùng đọc: "Uýnh Sình Sầm mày ra cái gì? tao ra cái này", trong khi bàn tay được dấu sau lưng và khi dứt câu thì đưa tay ra cùng một lúc không được trước sau với dấu hiệu tùy vào mỗi bên, như thế ta biết được bên nào thắng bên nào thua theo luật định, khi hai bên ra cùng một dấu hiệu thì được sình sầm lại.
35. Trò chơi: RỒNG RẮN LÊN MÂY
Rồng rắn lên mây
Có cây thuốc Bắc
Có ông thầy ở nhà không?
Một số người chơi rồng rắn, nối đuôi nhau bằng cách người đứng sau hai tay ôm ngang hông người đứng trước, cứ thế xếp thành hàng dài tùy theo số người chơi, hình thù như một con rắn dài có mắt khúc.
Người đứng đầu làm đầu rắn, người đứng cuối làm đuôi rắn, giữa là thân rắn và một người làm ông thầy thuốc Bắc ngồi đối diện với con rắn. Khi con rắn (đoàn người nối đuôi nhau) cùng thưa với ông thầy bài tấu trên, Ông thầy không đồng ý thì con rắn sẽ đi vài vòng rồi quay lại tâu tiếp để xin ông thầy cho thuốc.
Sau nhiều lần từ chối, ông thầy đồng ý thì ông sẽ đứng lên để tìm cách bắt lấy được đuôi của con rắn ông mới cho thuốc. Tình trạng con rắn lúc đó phải cố tránh né để ông thầy không bắt được đuôi nên cố sức che chắn không cho ông thầy tiến về phía sau, và cùng nhau hò hét với bài hát: 
"mạnh thầy thầy bắt được thầy ăn, mạnh rắn rắn bắt được rắn cắn”. 
Thế là cả đoàn người nối đuôi nhau phải lượn qua lượn lại (chạy qua, chạy lại) theo đầu con rắn. Cả đám người cứ thế cố né tránh, ông thầy một mình nhanh chân hơn và dễ chạy hơn, nên con rắn một lúc lâu thấm mệt và thật khó giữ được sự ngay hàng như lúc đầu nên cũng sẽ bị đứt ra nhiều đoạn, thế là đầu con rắn không còn điều khiển cho phần đuôi nữa. Vậy là ông thầy bắt được cái đuôi rắn dễ dàng. 
Trò chơi vui khi phải chạy lượn qua lại tránh thầy thuốc Bắc. Chỉ có vậy thôi nhưng với đám trẽ nhỏ trong những đêm sáng trăng ở quê nhà, với ánh sáng không tỏ tranh sáng tranh tối, thật là một trò chơi vui đùa thú vị.
36. Trò chơi: CÚNG THÍ THỰC CÔ HỒN
Tôi còn nhớ rõ lắm cách đây trên 30 năm, gia đình tôi sống tại một vùng quê nhỏ nhưng đầy ấp tình người, người dân quê vẫn luôn giữ được tập tục tốt đẹp: Ngày Lễ Vu Lan Rằm tháng 7 âm lịch, tức là ngày cúng Cửu huyền thất tổ, đồng thời là ngày cúng "Cô hồn các đảng" không nơi nương tựa. Việc cúng cô hồn không ai bảo ai nhà nhà đều lập bàn thờ cúng thí với lòng thành và ý thức rằng những oan hồn sống lây lất phiêu bạc nơi gò đồng, núi rừng, đói rách tả tơi, lang thang đây đó, không ai đơm quẩy thì ta nên nghĩ tưởng nhớ đến họ mà tội nghiệp, nếu không trong tâm họ sẽ cảm thấy bức rức trong lòng.
Vào mỗi đêm trong tuần tháng 7, bất kể kẽ giàu người nghèo, mọi người đều thiết lễ cúng cô hồn tùy theo khả năng, hoàn cảnh của mình, có gì cúng nấy. Lễ cúng được bày giữa sân nhà hoặc trước cửa nhà, trên hết là một bàn cúng hương hoa quả, chè xôi bánh trái, nhất là phải có một bát cháo trắng, một đĩa nhỏ gạo muối và một nia để bày bánh trái với dụng ý cúng cho cô hồn non trẽ gồm: kẹo, bánh, mía cắt khúc, khoai lang, khoai mì, đậu phộng, cốc, ổi...và những đồng tiền cắc.
Gia chủ đem cả lòng thành kính dâng cúng, không phải để cầu cho gia đình một điều gì, mà chỉ mong cô hồn các đảng được no đủ. Khi các vật phẩm dâng cúng được bày đầy đủ, gia chủ đốt hương khấn vái mời thỉnh các vong hồn về dự lễ.
Cứ vào đầu xóm, khi các gia chủ đang cúng thí thì xuất hiện từng tốp trẽ con kéo đến từng nhà, ngồi đứng quanh đó. Lúc gia chủ vừa đốt giấy tiền vàng bạc và rãi muối gạo coi như lễ cúng xong. Không ai bảo ai, nhóm trẽ ùa vào chụp nia, được gì lấy nấy, gây nên tiếng la hét cười cợt vui nhộn. Họ lần lượt từ nhà này đến nhà khác để "chụp nia", người ta thường gọi nhóm này là "Cô hồn sống". Gia chủ cũng cảm thấy hả hê trong lòng.
Qua lễ chúng ta nhận thấy một hình ảnh sống động, mang ý nghĩ "từ bi bố thí", tạo nên một tập tục tốt đẹp, người chết được ấm lòng nương theo phép Phật siêu âm nơi miền lạc quốc, người sống được cởi mở tấm lòng, thực hiện pháp bố thí cho hàm linh an lạc. Ngày nay lễ cúng này cũng chỉ còn một số ít, hình ảnh "chụp nia" cũng không còn nhiều, và truyền thống tốt đẹp ấy đã dần dần đi vào dĩ vãng.
Đối với nhà Phật thì lễ cúng thí cô hồn được thực hiện trong dịp Rằm đến 30 tháng bảy âm lịch.
37. Trò chơi: ĐÁNH BANH THẼ
Gồm 10 cây đũa tre với 1 trái banh lông nhỏ thường dùng để đánh Tennis, nếu không có banh có thể thay banh bằng một trái chanh. Dùng banh thì có độ phản hồi của trái banh dễ đánh hơn dùng quả chanh, chỉ thảy lên và chụp lại ngay. Số người đánh thẽ gồm 2 người, ngồi đối diện nhau trên nền nhà.
Thi để lấy quyền đánh trước: 
Cách thứ nhất: Dùng 3 cây thẽ nắm ngay chính giữa xoay tròn rồi thả nhẹ xuống nền nhà, để 3 cây thẽ có thể tạo thành một hình tam giác và dùng một cây thẽ khác chấm đầu thẽ vào hình tam giác đó, cố gắng sao cho đầu đũa không đụng vào thẽ, thế là người chơi đã ghi được một điểm. Cả hai bên cùng tiếp tục như thế đến 3 lần, và nếu bên nào đã tạo ra được 3 hình tam giác thì được quyền đi trước.
Cách thứ nhì: Bao tiếng sùm (Oẳn Tù Tì) xem ai được quyền ưu tiên đi trước, xem bài đã viết trước.
1.Cách đánh thẽ: Người đánh thẽ rải đều 10 cây thẽ xuống nền nhà, cố gắng bằng cách không để thẽ chồng lên nhau cho dễ lấy từng đôi thẽ một, vừa tung trái banh lên thì tay cầm banh phải nhanh tay nhặt từng đôi gồm 2 thẽ, khi trái banh rớt xuống nền nhà và tung lên, tay phải bắt kịp trái banh không để rơi xuống đất lần nữa, và cứ thế cho hết số thẽ, làm 5 lần như vậy và không được sang tay bên kia. 
2.Đến canh chụm: Bên đối phương dùng tay chụm 10 cây đũa thẽ vào một nhúm, người chơi thảy banh lên trong cùng một bên tay, lấy số thẽ làm sao để chừa lại số thẽ còn lại 2 thẽ, thì cuộc chơi tiếp tục dễ dàng hơn vì nếu chừa nhiều thì khi đánh đến các vòng kế tiếp cuộc chơi sẽ tính tùy vào số thẽ chừa lại trong canh chụm.
3.Kế tiếp là canh quyét: Cầm bó thẽ trong tay ngay đầu thẽ rồi thảy banh lên trong khi trái banh đang ở độ cao thì người chơi cầm bó thẽ quét như cầm chổi quét nhà vậy, quét qua, quét lại liền, điều này liên quan đến số thẽ chừa lại ở canh chụm (2 thẽ),(các cách chơi còn lại cũng tùy thuộc vào số thẽ còn dư lại trong canh chụm) và chụp ngay trái banh khi banh rơi xuống và đã tung lên mặt đất. Tiếp tục 5 lần như thế để đủ. 
4.Canh chuyền: Cầm chặt bó thẽ để ngang người thảy banh lên trong khi banh đang ở độ cao thì người chơi xoay tròn 2 vòng bó thẽ và chụp cho kịp trái banh như những lần trước khi banh rơi xuống và được tung lên.. Tiếp tục cho hết 5 lần. 
5.Canh giã: Cầm giữa bó thẽ, trái banh được tung lên cao và kịp dộng đứng bó thẽ xuống nền nhà 2 lần, tiếp tục không ngừng và đếm 2,4,6,8,10 cho kịp bắt được trái banh. Thế là kết thúc cuộc chơi.
Hơn thua nhau khi chơi banh thẽ: nếu người chơi không bắt kịp trái banh để banh rơi ra ngoài và khi bắt thẽ không đủ số hoặc dư so với số thẽ còn dư lại trong canh chụm quyết định. Người đánh thẽ giỏi có thể chừa 4 cây thẽ trong canh chụm để khi đánh các canh thẽ tiếp tục phải đánh 4 lần thay vì 2 lần trong cách chơi thẽ nói trên. Chơi khó vì khi vừa thảy banh và vừa nhặt thẽ hay đánh thẽ mà phải điều khiển cả tay và mắt nhìn. Bên nào hư thì đưa cho bên kia bắt đầu cuôc chơi. 
6.Cách phạt: Bên thắng sẽ dùng cả bó thẽ nắm trong tay gõ vào chân họăc tay đối phương với số lượng đánh phạt tùy vào sự giao hẹn trước khi chơi, trong khi đó trái banh cũng được tung lên nhịp nhàng theo mỗi lần đánh phạt.
38. Trò chơi: CHẮC MÚA LÚA HẾT BỒ
Vừa đọc được bài viết của chị Văn Thu "Đánh banh chuyền" mà người Ninh Hòa mình còn gọi là "Chơi chắc múa" làm tôi sực nhớ lại câu thơ :
"Chơi chắc múa lúa hết bồ".
Tôi cũng không rõ câu thơ này đã bắt nguồn từ đâu, thế nhưng các bà mẹ ở Ninh Hòa đã dựa vào câu thơ ấy rồi trở thành mê tín dị đoan. 
Hồi nhỏ tôi mê trò "chơi chắc múa" lắm, có khi không rủ được bạn bè, tôi chỉ chơi có một mình thôi. Thường thì tôi và các bạn tôi hay rủ nhau chơi trên thềm xi măng ở mái hiên sau hè; hôm nay thì chơi ở nhà đứa này, ngày mai thì chơi ở nhà đứa kia, vì rất sợ các bà mẹ mỗi lần thấy là mỗi lần chúng tôi bị la rầy. Khi thấy tụi này ngồi tụm năm tụm bảy lại chơi chắc múa thì bà lấy chổi chà lên rượt rồi thét lên:
"Tụi mày cứ thi nhau mà múa đi rồi sẽ không có gạo để mà nấu cơm".
Bây giờ tôi ngồi ngẫm nghĩ mà "thắc cừ" (mắc cười), làm sao chơi chắc múa mà lúa có thể hết bồ được, ấy vậy mà hồi đó tụi này rất sợ bị đánh đòn cho nên thường đợi cho tới khi mà mẹ của bạn tôi vừa xách giỏ đi chợ là xúm nhau lại chơi liền và khi vừa thấy bóng của bà về là chúng tôi lật đật xả bàn.
Tôi phải đợi con gái của tôi lớn rồi sẽ cùng chơi chắc múa với nó vì tôi nghĩ đó là một trò chơi rất vui và thú vị cho cả người ngồi coi.
39. Trò chơi: HÚ CHUỘT
Chi chi chuột chuột
Hú chuột răng mới về tao răng cũ về mày
Răng tao sao răng mày vậy.
Xưa kia khi chúng tôi còn nhỏ sau mỗi lần được mẹ nhổ răng sữa bị lung lay, mẹ thường dùng sợi chỉ may gập đôi lại cho chắc và quấn vài vòng quanh chân răng rồi giật mạnh ra, thế là xong. 
Mẹ thường bắt chúng tôi tự ném cái răng vừa nhổ của mình lên mái nhà ngay lúc đó và hú chuột với những câu ví von như vậy để cho răng mau được mọc lại.
40. Trò chơi: CÔM, CAM HAY KEM
Mỗi địa phương có một cách phát âm riêng thật đặc trưng và dễ thương - Người Ninh Hòa mình hay nói vần am thành vần em, nên mới có câu chuyện này :
Một chị Ninh Hòa đi buôn chuyến tận Đà Nẵng. Ngồi trên xe đò khát nước chị kêu cô bán Cam.
- Ê! bán cho tôi trái "Kem"
Chị bán Cam không trả lời .
- Ê! đem “Kem” lại đây bán. Bộ điếc hả? 
- Nhưng tui đâu có bán Kem . 
Chị Ninh Hòa bực tức chỉ vào thúng Cam
- Chớ còn cái thúng gì đó mà nói không bán "Kem"? 
Như sực hiểu ra, cô Đà Nẵng phân trần :
- Trời ơi! "Côm" mà nói là "Kem" thì làm sao tui biết ngõ mà "bón".
41. Trò chơi: HÁT SINH
Người Cao Lan đến vùng ven chân núi Tam Đảo sinh cơ lập nghiệp, khai phá nương đồi, lập làng, bản đông vui sầm uất từnhiều thế kỷ trên vùng đất "Sáng trong và bình yên" xã Quang Yên, huyện Lập Thạch.
Dân số chỉ khoảng 1.500 người, song người Cao Lan đã đóng góp làm giàu kho tàng văn hoá dân gian của tỉnh nhà, trong đó không thể không nói tới truyền thống hát Sịnh ca đậm đà tình yêu cuộc sống.
Những bài hát ví của vị chúa thơ Lau - Slam sáng tạo ra, được nam nữ thanh niên Cao Lan bao đời nay mến mộ và học thuộc, được tập hợp lại thành sách rồi hát cho nhau nghe 36 đêm không hết. Sịnh-ca có nội dung phong phú, tươi sáng ca ngợi tình yêu lứa đôi, ca ngợi tình đoàn kết, tình yêu quê hương, nhân sinh quan của con người trước những hiện tượng thiên nhiên, đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác.
Người Cao Lan đã hát (tạm dịch):
"Quả ớt dù cay cũng ăn cả vỏ
Quả chuối dù ngọt cũng bỏ vỏ ngoài".
Và họ tự hào: 
"Thơ ca của vị chúa thơ ca làm ra
Hát ba mươi sáu ngày đêm chưa hết".
"Giọng hát nàng trong như tiếng chim
Nhớ mãi câu hát của nàng
Ngày mưa đội chung nón
Ngày nắng che chung ô...".
42. Trò chơi: HÁT SOONG
Soọng-cô là dân ca của đồng bào dân tộc Sán Dìu. Hát Soọng-cô chủ yếu là phần hát đối đáp giao duyên. Sau đó là phần hát trong đám cưới, Soọng-cô được hát theo sách, có bài bản sẵn. Người đi hát phải thuộc sách hát. Họ dẫn câu hát trong sách ra để hát đố. Người đáp cũng nhờ thuộc sách mà trích ra những câu hợp cảnh hợp tình để hát đáp câu hát hỏi.
Mỗi đêm hát đều có các bước: Chập tối hát gọi, mời ngồi xuống chiếu, mời nước mời trầu. Nửa đêm là hát hỏi: Hỏi về quê quán, gia sự, hát thăm dò tìm hiểu nghề nghiệp, ý nguyện của nhau... canh ba chủ nhà mời ăn lót dạ xôi hoặc chè cháo... Sau đó là hát chào, hát xin về, hát níu giữ nhau. Sáng ra thì họ vừa tiễn nhau ra cổng vừa hát hẹn hò cuộc hát tới.
Khi hát không được đùa cợt, không vì phục tại, cảm thông, yêu mà tách ra đưa nhau đi tỏ tình riêng. Nếu ưng nhau, thì tìm gặp nhau sau để rồi lựa tìm ông mai mối (Mu Nhin) mối manh cho mình. Các cặp vợ chồng sau đó coi ông bà Mu Nhin như cha mẹ đẽ, sống tết, chết giỗ. Ông bà Mu Nhin qua đời, cặp vợ chồng phải có một con lợn đến làm ma.
Hát đối đáp hát theo giọng ví, kể lể gọi là hát cộc. Hát đám cưới thường là hát ru. Giọng ru dài ra, nếu một từ hát cộc kể ra rồi bắt ngay sang từ khác nhưng hát ru thì ru đi ru lại ngân nga luyến láy điệp khúc kéo dài gấp dăm bảy lần hát cộc. Soọng - cô trong đám cưới thường do các cặp nam giới đối đáp nhau, nhà trai cử hai anh hát, nhà gái cũng cử hai anh. Hát giọng ru thì song ca, hát cộc thì đơn ca. Mở đầu cuộc hát cưới là cặp hát nhà trai hát chào ông bà chủ, chào cô, dì, chú, bác, chào bà con anh em, trước hết là bàn thờ tổ tiên. Khi tốp nhà trai hát, tốp nhà gái hát đáp lại từng câu, từng bài. Khi hai họ ăn uống họ vẫn hát, mừng cho khách ăn uống no say. Hát suốt ngày suốt đêm cho tới khi tan đám cưới.
43. Trò chơi: HỘI VẬT LÀNG HÀ
Vùng chân núi Tam Đảo có nhiều hội vật, nhưng hội vật làng Hà, xã Hồ Sơn, huyện Tam Dương là đông vui nhất vì tất cả các danh đô các hội trong vùng đều hẹn hò về đây tranh tài. Ai đạt vô địch ở hội làng Hà mới thật đáng mặt anh tài thiên hạ.
Hội vật làng Hà tổ chức vào mồng 7 tháng giêng. Ngay từ sáng sớm các cụ làm lễ đình xong, tiếng trống nổi lên mời gọi mọi người khắp nơi về tụ hội. Trên bãi cỏ trước sân đình, bên cây đa cổ thụ lần lượt từng đôi vật ra múa chào các quan khách và nhân dân. Theo hiệu trống của trưởng lão từng đôi vật vờn nhau rồi vào cuộc theo lối vật tự do với cách thách đấu để giữ giải và thách đấu trước bàn dân thiên hạ. Cho nên bất cứ ai đều có thể thi đấu và giật giải. Đây là hình thức thể thao quần chúng, tạo không khí vui vẽ với phong cách biểu diễn nghệ thuật từ "Xe đài" hay "Múa hạc" nhằm chiếm cảm tình người xem trước khi vào cuộc tranh hùng. Đặc biệt là người vào đấu vật không nhất thiết phải đóng khố cởi trần. Vì thế đã có những bậc nữ nhi giả trai vào đấu tranh giải. Hội vật làng Hà càng trở lên hấp dẫn người xem.
Lễ trao giải thưởng cũng thật độc đáo: Một vị cao niên đi trước cầm bó hương, đi sau là cô gái đẹp nhất làng đội mâm xôi có chân giò lợn lớn, một chùm cau và một vò rượu tăm tới nguyên quán nhà vô địch làm lễ gia tiên và kính cáo với dân làng sở tại đã sinh ra 1 người tài làm rạng rỡ truyền thống thượng võ của quê hương. Chỉ những dân tộc có truyền thống thượng võ mới có được ngày hội vui như vậy.
44. Trò chơi: KÉO SONG HƯƠNG CANH
Làng Hương Canh (Bình Xuyên) tổ chức kéo co ở sân đình Ngọc và sân đình Hương. Dựng một cột lim chắc khoẽ ở sân đình có đục lỗ luồn một dây song dài kéo qua.
Bốn đơn vị thi kéo co là làng Hương, làng Tiên, làng Ngọc và thông Đại Đồng. Khi trong đình tế xong thì nổi tiếng trống chiêng để cuộc kéo co bắt đầu.
Mỗi bên cử 25 tráng đinh vào kéo, đầu bịt khăn đỏ, lưng thắt bao đỏ. Bên nào cũng có một người cầm cờ đuôi nheo để chỉ huy. Người cầm chịch ấy còn gọi là "Ông lấy mực". Do co kéo nhau nên nhiều sợi dây song cọ vào lỗ cọc lim bị nóng bốc khói làm sợi dây bị cháy, đứt đôi, người 2 bên lại ngã bổ ngửa chồng lên nhau.
Mỗi buổi chiều làng thi kéo co 4 hiệp. Cứ sau 30 phút lại nghỉ giải lao. Phần sợi song của mỗi bên tính từ giữa cọc ra 1m có buộc vải màu đánh dấu. Nếu bị đối phương lôi mạnh chỗ đánh dấu chui vào lỗ cọc thì bị thua. Bên thắng được làng thưởng hậu hĩnh bằng gạo, lợn hoặc bò đủ cho trai đinh giáp mình sửa cỗ bàn ăn uống mừng thắng trận.
45. Trò chơi: LEO CẦU ÙM
Trò này có ở Bình Dương (Vĩnh Tường), Xuân Hoà (Lập Thạch), Đạo Đức (Bình Xuyên). Cầu ùm là một cây tre gốc được gác lên bờ ao chôn cọc giữ hai bên cho khỏi lăn, đầu ngọn được đặt trên cọc chéo mà lại leo bằng dây thừng. Khi có
người lên cầu, cầu đung đưa, lủng liểng làm cho cuộc chơi thêm phần khó khăn hơn, nên càng hào hứng sôi động. ở đầu cầu trên ao có cắm cờ hiệu, người chơi leo lên cầu tới đầu cầu có cắm cờ, lấy lá cờ về là được cuộc. Phần nhiều những người dự chơi thường bị ngã "ùm" xuống ao vì thế gọi trò chơi này là trò leo cầu ùm.
46. Trò chơi: TRỐNG QUÂN ĐỨC BÁC
Làng Cả, còn có tên là Kẽ Lép thuộc xã Đức Bác, huyện Lập Thạch nằm bên tả ngạn sông Lô, có tục hát Trống quân đặc sắc. Hàng năm làng mở tiệc khai xuân cầu đinh vào ngày 1 tháng 2 âm lịch, kéo dài 3 đêm tại đình công đồng.
Từ chiều mồng 1 tháng Giêng, nam thanh nữ tú cùng dân làng ra đền Đức Ông và đền Đức Bà rước vật thờ về đình công đồng (chày gỗ và mo cau phồn thực) và ra bờ sông Lô đón thuyền của họ Xoan bên kia sông sang hát thờ.
Các chàng trai vừa gõ trống vừa hát:
Đón chào từ sớm tới giờ
Để cho tin đợi, tin chờ, tin mong
Hát đế:
Kìa hỡi í a trống quân
Các cô liền đáp:
Chờ mong xin giữ ơn lòng
Cách sông cách đồng giờ mới tới đây
Hát đế:
Kìa hỡi í a trống quân
Cứ như thế đối đáp đôi bên lời ca mộc mạc, tình ý mặn nồng, đủ 14 quả cách (Hát thờ,hát chào mời, hát giáo trống, hát giáo phách...). Ngoài hát Trống quân, Đức Bác còn có lễ tục bơi cầu mùa, cầu đinh không kém phần đặc sắc.
47. Trò chơi: TỨ THÚ NHÂN LƯƠNG
Lễ hội ngày 9 tháng Giêng của 3 làng Mậu Lâm, Mậu Thông, Vĩnh Thịnh, xã Khai Quang, thị xã Vĩnh Yên, có tên "Lễ khai xuân khánh hạ" (vui mừng đón xuân). Dân gian gọi là múa Mo - một hình thức Các-na-van độc đáo ít thấy ở vùng quê khác.
Trò diễn có 26 người gồm các thành phần tiến theo đoàn rước: 1 người cầm chiêng, 1 người cầm trống, 4 người vác bảng "Tứ hình", sư, vãi, thầy đồ, học trò, người cày, cuốc, cấy, gặt, xúc tôm, câu ếch, thợ mộc, lái buôn (dụng cụ theo nghề). Khi biểu diễn đều đeo mặt nạ (bồi bằng giấy bản, có khi bằng mo cau), về y phục đều theo màu sắc và phong cách tuỳ theo nghề nghiệp. Nam đóng giả nữ. Trâu, bò chỉ có phần đầu. Các nhóm trò biểu diễn cách điệu mô phỏng kiểu sinh hoạt xã hội nông nghiệp thời xưa: Thầy đồ dạy học; nông phu cấy cày, xúc tép, câu ếch; thương nhân đi buôn; thợ mộc đục bào. Chỉ có điều các dụng cụ hầu như đều cầm ngược đi kèm với các động tác ngộ nghĩnh, gây hài. Trò diễn quả là hấp dẫn, vui nhộn, đem lại tiếng cười sảng khoái cho người dự hội.
48. Trò chơi: ĐẢ CẦU CƯỚP PHẾT
Tục đả cầu cướp phết được diễn ra chiều ngày 7 tháng giêng hàng năm tại đền Đông Lai, xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch. 
Lễ thức đả cầu cướp phết được tiến hành song song giữa hai hình thức cùng một lúc:
1. Các trai đinh cởi trần cướp quả cầu bằng gỗ quý, đường kính 35cm (cướp tay không).
2. Các trai đinh cầm mồng phết có hình cong làm bằng gốc tre có khắc hình đầu long mã, dài 1m20. Trai đinh cầm mồng phết đuổi theo người cướp cầu bằng tay. Nếu ôm được quả cầu thì người cầm phết đuổi theo bổ và ngoặc.
Khi các cụ tế lễ xong thì quả cầu và 2 phết được xếp lên kiệu trước sân đình cộng đồng. Sau 3 hồi trống chiêng, cụ Mệnh ôm quả cầu đi dưới gầm kiệu, hàng trăm trai đinh (cởi trần, đóng khố, chít khăn đỏ) đứng chờ sẵn phía trước kiệu. Cụ Mệnh hô phép thần: Làm lễ ăn lễ, ăn trầu, búi tóc, vươn vai thì các trai đinh cầm phết làm động tác tương tự theo lời hô của cụ Mệnh và làm lễ 4 vái. Cụ Mệnh hô: Đón cầu, một trai đinh vào ôm cầu chạy ra cổng, mọi người đuổi theo ôm giằng lấy nhau cứ thế quả cầu được di chuyển dưới sự chỉ huy của người cầm cờ sai (thân hình to khoẽ, giọng vang như sấm, thắt lưng đỏ, đầu thắt khăn chéo, chân quấn xà cạp) hô to: Tiến lên! người cầm mồng phết đuổi theo vây quanh người cướp cầu. Không khí hội xuân thật náo nhiệt.
Từ cổng đình ra tới Mô phết 250m, Mô phết cao 1,5m trên thửa ruộng có diện tích 240m2. Khi kiệu đi đến Mô phết, một trai đinh khoẽ mạnh nhất ôm quả cầu đặt lên đỉnh mô phết, cụ Mệnh, cụ cầm phết làm động tác giao tranh, rồi tiếng trống liên hồi, sau 3 hồi kiệu rước về đền thì đám người cướp cầu tự do, núi người tiếp tục chồng lên nhau. Năm nào cũng vậy, phải đến 6 - 7 giờ tối mới rước quả cầu vào đền và phát thưởng cho trai đinh cướp được quả cầu. Các trai đinh người nào cũng dính đầy bùn đất nhưng rất vui vẽ với tâm trạng của người chiến thắng. Tục đả cầu cướp phết là ôn lại việc giữ đất, trấn ải của các tướng lĩnh thời Hùn

File đính kèm:

  • doc100_tro_choi_dan_gian.doc