Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử

1/ Tình hình sử dụng các dụng cụ trực quan đối với việc dạy học trước đây:

- Trước đây, đa số các trường đều thiếu thốn về cơ sở vật chất, nghèo nàn về các thiết bị dạy học đối với bộ môn Lịch sử , chỉ có một số loại đơn giản: Lược đồ, sơ đồ, bản đồ, .v.v.

- Theo quan niệm giáo dục lạc hậu trước đây cho rằng dụng cụ trực quan là phương tiện cần thiết để giáo viên truyền thụ kiến thức mới, dụng cụ minh hoạ cho các kiến thức đã truyền đạt, còn đối với học sinh chỉ có tác dụng chấp nhận và ghi nhớ.

- Theo phương pháp sử dụng này thì dụng cụ trực quan chưa phát huy hết vai trò của mình, đôi khi chưa thể hiện được tính trực quan và tính khoa học của nó, giờ dạy Lịch sử sẽ rơi vào những hạn chế sau:

 

doc22 trang | Chia sẻ: dungnc89 | Lượt xem: 4137 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiễn, việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc sử dụng đồ dùng trực quan trong học tập môn lịch sử là điều cần thiết và quan trọng để nâng cao hiệu quả giáo dục. Đó chính là lí do chủ yếu để nghiên cứu vấn đề này. Nội dung gồm:
a. Cơ sở lí luận của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy-học lịch sử
b. Thực tiễn của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy -học ở trường 
THCS.
c. Những biện pháp sư phạm để phát huy sử dụng đồ dùng trực qua có hiệu quả.
3. Phương pháp nghiên cứu:
	a- Đối tượng nghiên cứu.
	- Nội dung chương trình SGK, sách bài tập lịch sử THCS .
	- Sách hướng dẫn giáo viên, phân phối chương trình lịch sử THCS, thuật ngữ lịch sử và các tài liệu có liên quan
	- Đối tượng HS THCS đặc biệt là HS lớp 9.	
	- Giáo viên dạy bộ môn và thực trạng việc sử dụng đồ dùng trực quan ở trường THCS hiện nay.
	b- Nhiệm vụ, mục đích.
	- Nhìn rõ thực trạng việc sử dụng đồ dùng trực quan ở trường THCS những ưu điểm, nhược điểm.
	- Nguyên tắc và phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan. 
	- Rút ra những yêu cầu chung và bài học kinh nghiệm khi sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy gắn với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lịch sử.
	c- Phương pháp nghiên cứu.
 - Điều tra, phán đoán.
	- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
	- Phương pháp thực nghiệm.
	- Phương pháp khảo sát đánh giá.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
 Cơ sở lí luận của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường THCS. Hiện nay có nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau về vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng Việc xây dựng cơ sở lí luận là điều quan trọng trong thực tiễn dạy học bộ môn.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đối với học sinh lớp 9 là lớp cuối bậc THCS vì vậy mục tiêu giáo dục đặt ra ở đây là các em phải nắm được những kiến thức cơ bản nhất lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới được xuyên suốt từ lớp 6 đến lớp 9. Các em phải được rèn luyện ở mức độ cao hơn khả năng tự học, tự nhận thức và hành động cũng như có những tìm tòi trong tư duy,sáng taọ.
 So sánh kiểu dạy học truyền thống và phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh thông qua việc tiếp cận, làm việc với đồ dùng trực quan chúng ta thấy rõ những điều khác biệt cơ bản trong quá trình dạy và học. Xin trích dẫn một vài ví dụ của giáo sư Phan Ngọc Liên và tiến sĩ Vũ Ngọc Anh để thấy rõ sự khác biệt đó:
KIỂU DẠY HỌC TRUYỀN THỐNG
PPDH PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HS
1. Cung cấp nhiều sự kiện, được xem là tiêu chí cho chất lượng giáo dục.
2. GV là nguồn kiến thức duy nhất, phần lớn thời gian trên lớp dành cho GV thuyết trình, giảng giải, HS thụ động tiếp thu kiến thức thông qua nghe và ghi lại lời của GV.
3. Học sinh chỉ làm việc một mình trên lớp, ở nhà hoặc với GV khi kiểm tra.
4. Nguồn kiến thức thu nhận được của HS rất hạn hẹp, thường giới hạn ở các bài giảng của GV, SGK
5. Hình thức tổ chức dạy học chủ yếu ở trên lớp
1. Cung cấp những kiến thức cơ bản được chọn lựa phù hợp với yêu cầu, trình độ của HS, nhằm vào mục tiêu đào tạo.
2. Ngoài bài giảng của GV ở trên lớp HS được tiếp xúc với nhiều nguồn kiến thức khác, vốn kiến thức đã học, kiến thức của bạn bè, SGK, tài liệu tham khảo, thực tế cuộc sống.
3. HS ngoài việc tự nghiên cứu còn trao đổi, thảo luận với các bạn trong tổ, lớp, trao đổi ngoài giờ. HS đề xuất ý kiến, thắc mắc, trao đổi với GV.
4. Nguồn kiến thức của HS thu nhận rất phong phú, đa dang: Lời nói, tài liệu viết, đồ dùng trực quan, di tích lịch sử, phòng truyền thống, nhân chứng lịch sử....
5. Dạy ở trên lớp, ở thực địa, ở bảo tàng, các hoạt động ngoại khoá....
(Trích “ Áp dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cựccủa HS trong môn lịch sử). GS. Phan Ngọc Liên và TS Vũ Ngọc Anh. NXB Đại học SP, Hà Nội 2002 
Như vậy qua so sánh hai kiểu dạy học trên thì ta thấy phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh sẽ đem lại hiệu quả cao hơn .Tuy nhiên nó đòi hỏi giáo viên và học sinh phải được “Tích cực hoá’’ trong quá trình dạy- học, phải chủ động sáng tạo. Muốn đạt được điều đó GV cần áp dung nhiều phương pháp dạy - học trong đó có phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan. Cần phải tiếp thu những điểm cơ bản có tính nguyên tắc của cách dạy truyền thống song phải luôn luôn đổi mới, làm một cuộc cách mạng trong người dạy và người học để khắc phục sự bảo thủ, thụ động như: Giáo viên chỉ chuẩn bị giảng những điều học sinh dễ nhớ, học sinh chỉ chú trọng ghi lời giảng của giáo viên và kiến thức trong sách để trình bày lại khi kiểm tra. 
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ:
Trước sự đổi mới từng ngày, từng giờ của tri thức khoa học, cùng với sự bùng nổ nhanh về kiến thức qua các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là của internet thì việc truyền thụ kiến thức cho học sinh đòi hỏi phải chính xác, kịp thời và có hệ thống, có định hướng là nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên. Chính vì vậy, để dạy tốt một tiết học giáo viên không ngừng phải nghiên cứu, tìm tòi nâng cao sự hiểu biết của mình, và phải có kĩ năng sử dụng các tư liệu đặc biệt là đồ dùng trực quan minh họa cho tiết dạy. Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên được thể hiện qua quá trình giáo dục và giảng dạy. Kiến thức giáo viên truyền thụ cho học sinh phải chính xác, đảm bảo yêu cầu cơ bản của mục tiêu giáo dục của cấp học. Phải tổ chức học tập một cách linh hoạt, chủ động sáng tạo để học sinh tự mình khám phá và chiếm lĩnh kiến thức.
Trong những năm gần đây các phương tiện, đồ dung cho dạy trên lớp của giáo viên tôi thấy đã có sự đầu tư và đổi mới. Song phương pháp, tổ chức một số giáo viên còn lúng túng, chưa xây dựng quy trình và kế hoạch một cách cụ thể nên hiệu quả chưa cao. Chất lượng dạy và học có chuyển biến nhưng chưa mạnh. Từ yêu cầu thực tiễn đó, người giáo viên cần phải học tập, tìm hiểu tự bồi dưỡng cho mình phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan để nâng cao hiệu quả trong dạy học lịch sử để đáp ứng yêu cầu hiện nay.
III. THỰC TRẠNG CỦA VẦN ĐỀ:
 Thực tiễn của việc dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong trường THCS hiện nay.
 Trong vài năm gần đây, bộ môn lịch sử nói chung và môn lịch sử lớp 9 nói riêng trong trường THCS đã được chú trọng hơn trước. Điều đó được thể hiện ở chỗ môn lịch sử được xếp ngang hàng với các môn khác như Lí , Hoá được tổ chức thi học kì cũng được thi tập trung theo lịch và đề của phòng giáo dục, việc ra đề cũng được chú trọng hơn, việc thi tuyển học sinh giỏi các cấp được tổ chức thường xuyên với quy mô và chất lượng, sát với thực tế. Cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo phục vụ cho việc dạy và học.
 Tuy nhiên qua hơn 20 năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học môn lịch sử hiện nay vẫn còn giặp rất nhiều khó khăn, nhưng trở ngại nhất là việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc quan sát, sử dụng đồ dùng trực quan, tuy đã được phổ biến, học tập bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ nhưng kết quả đạt được không đáng là bao. Điều đó đã dẫn đến chất lượng bộ môn nói chung đối với học sinh lớp 9 nói riêng khi ra trường là không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục và mục tiêu đào tạo đặt ra.
 Thực trạng của vấn đề này có thể giải thích ở những nguyên nhân cơ bản sau đây: 
 Thứ nhất là vẫn tồn tại một quan niệm cố hữu cho rằng môn Lịch sử cũng như Địa lí, Kĩ thuật, Thể dục, GDCD  đều là những môn phụ. Điều này được thể hiện việc quan tâm đến chất lượng bộ môn từ cấp lãnh đạo chưa đúng mức. Theo tìm hiểu của cá nhân tôi nhiều trường giáo viên dạy Văn, Địa lí ..có thể dạy sử do đó không đáp ứng yêu cầu của bộ môn đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. 
Thứ hai là về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được đầu tư nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay về đồ dùng dạy học nhất là các trường vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Tình trạng dạy chay vẫn còn khá phổ biến. Trong suốt quá trình học bộ môn từ lớp 6 đến lớp 9 cả thầy và trò chưa bao giờ có điều kiện tham quan một di tích lịch sử vì không có kinh phí. Điều đó làm cho vốn kiến thức kiến thức của các em chỉ bó gọn trong sách vở và bài giảng . 
 Nguyên nhân thứ ba là việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong học tập bộ môn lịch sử còn nhiều hạn chế một phần là do chính những cơ chế, những quy định từ cấp trên. Trong những năm trở lại đây môn lịch sử được quan tâm nhiều hơn, đồ dùng, tài liệu học tập được cung cấp đầy đủ hơn nhưng do nhu cầu của xã hội nên học sinh ít thích học môn lịch sử . 
 Ngoài ra cách tổ chức một số cuộc thi cử cũng còn nhiều hạn chế, đó là chỉ chú trọng về mặt kiểm tra lí thuyết mà coi nhẹ bài tập thực hành, ít chú ý đến việc phát triển năng lực sáng tạo.
 Cuối cùng điều quan trọng là ý thức trách nhiệm của mỗi giáo viên trong việc thực hiện các phương pháp dạy học phù hợp trong đó phải nói đến phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan để đem lại hiệu quả cho tiết dạy cũng như chất lượng bộ môn ngày một nâng cao. Mỗi một GV – HS phải hiểu rõ sự nguy hại của việc thi gì học nấy sẽ làm cho học vấn của học sinh bị què quặt, thiếu toàn diện..... Tình trạng mù lịch sử hiện nay ở không ít học sinh là hậu quả tất yếu của việc học lệch, không toàn diện. Đó là chưa kể đến việc coi thi, chấm thi chưa nghiêm túc, đúng mực nhằm đảm bảo thành tích của nhà trường, của cá nhân làm cho kết quả học tập của học sinh không đúng thực chất.
IV. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1/ Tình hình sử dụng các dụng cụ trực quan đối với việc dạy học trước đây:
- Trước đây, đa số các trường đều thiếu thốn về cơ sở vật chất, nghèo nàn về các thiết bị dạy học đối với bộ môn Lịch sử , chỉ có một số loại đơn giản: Lược đồ, sơ đồ, bản đồ, ...v.v.
- Theo quan niệm giáo dục lạc hậu trước đây cho rằng dụng cụ trực quan là phương tiện cần thiết để giáo viên truyền thụ kiến thức mới, dụng cụ minh hoạ cho các kiến thức đã truyền đạt, còn đối với học sinh chỉ có tác dụng chấp nhận và ghi nhớ.
- Theo phương pháp sử dụng này thì dụng cụ trực quan chưa phát huy hết vai trò của mình, đôi khi chưa thể hiện được tính trực quan và tính khoa học của nó, giờ dạy Lịch sử sẽ rơi vào những hạn chế sau:
+ Giáo viên chưa phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức.
+ Các kiến thức Lịch sử do giáo viên cung cấp học sinh sẽ không hiểu sâu, nhớ kỹ bằng chính các em tự nhận thức.
+ Các nguồn trí thức từ dụng cụ trực quan chưa thực sự hấp dẫn đối với các em. Do đó không gây hứng thú học tập, không có khả năng phát triển tư duy.
+ Chưa tạo cho học sinh các kỹ năng Lịch sử quan trọng như: Đọc, chỉ, bản đồ, phân tích các sự kiện ... 
2. Những biện pháp mới đã thực hiện:
Để cải tiến phương pháp giảng dạy phù hợp với chương trình giáo dục mới ở bộ môn Lịch sử , thiết bị các trường học đã trang bị khá đầy đủ các loại dụng cụ trực quan, chủ yếu là các loại sau:
- Hình vẽ, tranh, ảnh.
- Mô hình.
- Bản đồ, lược đồ.
- Băng video.
- Máy chiếu.
- Giáo án điện tử.
Đối với các loại phương tiện này thì người giáo viên lịch sử cần có phương pháp sử dụng như thế nào.
a/ Đối với Chân dung, hình vẽ, tranh, ảnh:
*) Đối với chân dung, hình vẽ: 
Học sinh lớp 9 THCS cũng như các lớp khác rất thích xem tranh ảnh, chân dung các nhà cách mạng, các anh hùng dân tộc, các vị lãnh tụ, các nhà phát minh khoa học, các nhà hoạt động văn hoá nghệ thuật. Các em không chỉ chú ý miêu tả bề ngoài mà còn chú ý phân tích nội dung, tính cách, hành vi thể hiện ở tranh ảnh . 
Vì vậy giáo viên phải làm nổi bật tính cách nhân vật để gây hứng thú cho học sinh, kích thích óc tò mò, phát triển năng lực nhận thức. Từ đó làm cho các em khâm phục, học tập được đạo đức, tài năng của họ.
 Tuy nhiên phải chọn thời gian phù hợp để đưa chân dung của nhân vật lịch sử ra. Khi sử dụng, giáo viên phải phân tích, định hướng cho học sinh, tự mình đánh giá vai trò, tính cách của nhân vật . 
 Ví dụ: Khi giảng bài “Cách mạng Việt Nam trước khi đảng cộng sản ra đời” dạy đến mục III. “Việt Nam Quốc dân đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái” giáo viên cho học sinh quan sát chân dung của Nguyễn Thái Học và giới thiệu về tiẻu sử của vị lãnh tụ của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng sẽ gây được hứng thú cho học sinh trong việc tìm hiểu về tổ chức cũng như giáo dục cho học sinh tinh thần dũng cảm, sự hy sinh quên mình vì đất nước của những thế hệ cha anh đi trước hoặc khi dạy bài “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời’’ khi dạy đến mục “Luận cương chính trị 10 – 1930’’ giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh Trần Phú. Sau đó cho học sinh phát biểu nêu lên sự hiểu biết về nhân vật lịch sử này, giáo viên kể cho các em nghe về tiểu sử, quá trình hoạt động cách mạng và khí tiết của người chiến sĩ cộng sản Trần Phú – Tổng bí thư đầu tiên của Đảng ta, 
Có thể là hình vẽ được giáo viên chuẩn bị trước, (như hình vẽ minh hoạ các sự kiện lịch sử , ...)
Đối với hình vẽ: Ta cần cho học sinh tiến hành theo các bước sau:
- Đọc tên và cho biết các sự kiện lịch sử trên hình vẽ .
- Tìm hiểu mốc thời gian diễn ra sự kiện lịch sử, địa phương diễn ra sự kiện đó. 
- Rút ra nguyên nhân ý nghĩa, bài học lịch sử từ sự kiện đó.
*) Tranh ảnh Lịch sử :
- Đối với giáo viên: Tham khảo sưu tầm nhiều tranh ảnh, tư liệu lịch sử có liên quan đến tiết dạy để minh hoạ trên lớp .
- Đối với học sinh: Ngoài việc làm bài tập và học ở nhà học sinh sưu tầm trên sách báo, những tranh ảnh liên quan đến bài học . 
Tranh ảnh trong SGK là một phần đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng. Thông qua quan sát miêu tả, tranh ảnh học sinh được rèn luyện kỹ năng diễn đạt , lựa chọn ngôn ngữ. Từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh lịch sử , giáo viên luyện cho các em thói quen quan sát và khả năng quan sát vật thể một cách khoa học, có xem xét, phân tích, giải thích để đi đến những nét khái quát rút ra những kết luận lịch sử . 
Ví dụ : Khi dạy bài “Hoạt động của Nguyễn ái Quốc ở nước ngoài (1919- 1925)’’ giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đang phát biểu ý kiến tại đại hội Tua (12- 1920). Sau khi tường thuật giáo viên cho học sinh cảm nhận được việc Nguyễn Ái Quốc bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê nin để truyền bá vào Việt Nam từ đó có tình cảm tự hào về con người Nguyễn Ái Quốc hoặc là bài 19 “Phong trào cách mạng trong những năm 1930 -1935” mục “II. Phong trào cách mạng 1930 -1931 giáo viên cho các em quan sát bức ảnh Xô Viết Nghệ Tĩnh các em sẽ hiểu sâu sắc hơn không khí cũng như tinh thần đấu tranh của nhân dân Nghệ Tĩnh và từ đó các em rút ra ý nghĩa của phong trào...
Như vậy việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác được nội dung lịch sử thể hiện trong tranh ảnh bổ sung cho bài giảng, vừa phát huy được năng lực tư duy cho HS, kích thích trí tưởng tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho các em 
+ Cách sử dụng có hiệu quả:
- Đọc tên bức tranh, xác định xem bức tranh đó thể hiện gì? Ở đâu? 
- Tường thuật lại diễn biến của sự kiện lịch sử .
- Rút ra được nguyên nhân ý nghĩa và bài học lịch sử. Từ đó giáo dục lòng yêu nước biết ơn các anh hùng của dân tộc.
b/ Mô hình:
Dùng những vật liệu đơn giản để tạo ra những hiện vật, những sự kiện lịch sử đơn giản để minh hoạ cho tiết dạy sinh động hơn.
Giáo viên giới thiệu mô hình đang sử dụng, mô hình là vật tượng trưng cho sự kiện lịch sử nào? .
Dùng câu hỏi hướng dẫn học sinh quan sát, trả lời tìm ra các sự kiện lịch sử 
Ví dụ: Trong mô hình Cảnh Thoát Hoan thua chạy. Giáo viên đặt câu hỏi : Thoát Hoan phải thua chạy chui vào ống đồng trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ mấy và diễn ra vào năm nào? Hoặc khi dạy bài lịch sử lớp 6 về công cụ của người nguyên thuỷ giáo viên cho học sinh quan sát mô hình về các lưỡi cày, liềm, rìu đá...các em sẽ cảm nhân được rõ ràng hơn, nhớ lâu hơn và các em sẽ mô tả được chính xác hơn những công cụ của thời tiền sử.
+ Từ các mô hình giáo viên giúp học sinh hiểu và nắm chắc các kiến thức Lịch sử ...
+ Cách sử dụng có hiệu quả:
- Giáo viên cho học sinh quan sát nhận biết đó là mô hình gì?
- Mô hình đó gắn với sự kiện nào.
- Rút ra ý nghĩa, bài học
c/ Bản đồ, lược đồ:
*) Bản đồ: 
 Bản đồ là phương tiện trực quan rất quan trọng và sinh động trong dạy học lịch sử. Trên bản đồ lịch sử các sự kiện luôn được thể hiện một không gian, thời gian, địa điểm cùng một số yếu tố địa lí nhất định 
 Ví dụ: Nếu chỉ dùng lời giáo viên khó có thể tạo cho học sinh biểu tượng về tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà thực dân Pháp và cố vấn Mĩ cho là “một pháo đài bất khả xâm phạm”, “một cối xay thịt Việt minh’. Nếu giáo viên biết kết hợp sử dụng bản đồ chiến trường Đông dương 1953-1954, bản đồ chiến dịch Điện Biên Phủ và một số hình ảnh khác thì học sinh có thể hiểu được khá rõ về vấn đề này: Điện Biên Phủ có núi cao bao bọc, hiểm trở, là vị trí chiến lược có thể kiểm soát cả chiến trường Lào và Bắc bộ .
Thông qua quan sát bản đồ, đọc kí hiệu, liên hệ với kiến thức địa lý đã học, nội dung lịch sử được biểu diễn trên bản đồ sẽ được học sinh nhanh chóng nắm bắt, việc sử dụng bản đồ lịch sử còn góp phần phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ, củng cố thêm kiến thức về Địa lí . 
Chú ý: Khi sử dụng bản đồ nhất thiết phải giới thiệu cụ thể cho các em kí hiệu ghi trên bản đồ, đồng thời tập cho các em quan sát, đọc bản đồ và tìm hiểu nội dung lịch sử được thể hiện trên bản đồ . 
Việc học lịch sử nhất thiết phải có bản đồ: “Có bản đồ là có địa lý”. Vậy học địa lý nhất thiết phải có bản đồ. Bản đồ vừa là phương tiện giúp các em khai thác kiến thức và là nguồn tri thức địa lý phong phú, nội dung địa lý đã được mã hoá trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt đó là ngôn ngữ bản đồ. 
- Thông qua việc sử dụng bản đồ giáo viên hướng dẫn học sinh rèn luyện được các kỹ năng bản đồ. 
- Đọc tên bản đồ để biết đối tượng lịch sử được thể hiện trên bản đồ là gì.
- Hiểu bản đồ, đọc được bản chú giải để biết cái người ta thể hiện đối tượng đó trên bản đồ như thế nào, bằng các ký hiệu gì ? Bằng màu sắc gì? ...
- Xác định vị trí, phương hướng của các địa điểm trên bản đồ.
- Cao hơn nữa giáo viên hướng dẫn học sinh biết dựa vào bản đồ, kết hợp với các kiến thức lịch sử để phân tích, so sánh, giải thích các mối quan hệ của các sự kiện giữa các đối tượng.
“ Mở đầu bằng bản đồ và kết thúc bằng bản đồ”
*) Lược đồ:
Trong giảng dạy lịch sử giáo viên có thể sử dụng lược đồ câm học sinh nhớ các sự kiện, địa danh diễn ra sự kiện và điền vào lược đồ với cách này học sinh sẽ khắc sâu trí nhớ. Cũng có thể giáo viên dùng những kí hiệu, biểu tượng để đính các địa danh, nơi diễn ra sự kiện nổi bật hoặc diễn biến của cuộc khởi nghĩa, chiến
 dịch...
Giáo viên cũng có thể sử dụng lược đồ để trình bày diễn biến, sự kiện như sử dụng bản đồ 
- Thông qua lược đồ giúp học sinh hiểu và nhớ lâu hơn các sự kiện.
- Bước đầu tập cho học sinh thể hiện các sự kiện đơn giản sau đó thực hành với các chiến dịch, các trận đánh có quy mô lớn hơn.
Qua các việc sử dụng lược đồ các em cũng có thể đánh giá được tác động của các điều kiện tự nhiên liên quan đến sự kiện lịch sử và cũng qua đó giáo viên cũng có thể đánh giá được khả năng lĩnh hội của các em và có hướng điều chỉnh, sửa chữa kịp thời cho các em và đây cũng là phương pháp kích thích khả năng tìm tòi, sáng tạo của các em.
d/ Băng video:
Là loại phương tiện và thiết bị kỹ thuật hiện đại, tạo cho học sinh có những phương pháp học tập mới, biết quan sát, nghe, nhìn; có khả năng lĩnh hội kiến thức với chất lượng cao, tốc độ nhanh. Với loại phương tiện này người giáo viên đòi hỏi phải có sự chuẩn bị công phu: Phòng tối, tivi, đầu video... và cơ bản là phải hướng dẫn, chỉ đạo tốt học sinh mới lĩnh hội chắc kiến thức.
Ví dụ: Khi dạy bài Chiến cuộc đông xuân 1953-1954 GV sử dụng băng video học sinh rất dễ dàng hiểu được quá trình chuẩn bị của quân và dân ta cũng như diễn biến của chiến dịch, HS tiếp thu bài nhanh, rất hứng thú với bài học hoặc bài 30 “Hoàn thành giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 1973 - 1975” giáo viên sử dụng băng video thì học sinh dễ cảm nhận được hào khí của dân tộc, của 5 cánh quân cùng lúc vượt qua tuyến phòng thủ bên ngoài của địch tiến vào trung tâm Sài Gòn..., Diễn biến của chiến dịch như thế học sinh sẽ tiếp thu bài rất nh

File đính kèm:

  • docSKKN su (1).doc