Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Lịch sử 7

Quốc hiệu Việt Nam

Dưới đây là danh sách các quốc hiệu chính thức của Việt Nam theo dòng lịch sử. Các quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, hoặc được chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế.

1. Văn Lang

Văn Lang là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam. Quốc gia này có kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ gồm khu vực Đồng bằng Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ.

2. Âu Lạc

Năm 257 TCN, nước Âu Lạc được dựng lên, từ liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán - An Dương Vương. Âu Lạc có lãnh thổ bao gồm lãnh thổ của Văn Lang trước đây và một phần đông nam Quảng Tây.

 

doc37 trang | Chia sẻ: dungnc89 | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Lịch sử 7, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh. Tin dữ trong nước đến cùng lúc nhà Nguyên đang sửa soạn đại binh đánh Đại Việt. Cần dẹp ngay mỗi bất hoà trong nước. Người đảm đang trọng trách này kông ai khác hơn Nhật Duật. Thế là vị tướng trẻ 27 tuổi dưới cờ hiệu “ Trấn thủ Đà Giang” làm lễ ra quân lên đường .
Hay tin, chúa Đà Giang họp đám đầu mục bàn kế cự chiến. Trịnh Giác Mật định ám hại vị tướng trẻ triều Trần nên đưa thư dụ Nhật Duật: “ Giác Mật không giám chống lại triều đình. Nếu ân chủ một mình một ngựa đến, Giác Mật xin ra hàng ngay”. Muốn thu phục được Giác Mật, Nhật Duật mặc các tướng can ngăn, một mình một ngựa đến trại Giác Mật, chỉ mang theo mấy tiểu đồng đi theo hầu. Thản nhiên giữa lớp lớp gươm giáo và đám lính an mặc kì dị cố ý phô trương để uy hiếp của Giác Mật. Nhật Duật nói với chúa đạo bằng chính ngôn ngữ và theo đúng phong tụccủa dân tộc Đà Giang.
Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đây thì nóng tai phải.
Từ Giác Mật đến các đầu mục đều sửng sờ kinh ngạc trước sự am hiểu tiếng nói và tục lệcủa Nhật Duật. Rồi mâm rượu được bưng lên. Chúa đạo nheo mắt thách thức, đưa tay mời. Chỉ có quả bầu cắt đôi sóng sánh rượu và dĩa thịt nai muối. Nhật Duật không chút ngần ngại cầm thịt ăn rồi vừa nhai vừa ngửa mặt cầm gáo rượu bầu từ từ dốc vào mũi hết sức thành thạo.
Trịnh Giác Mật thốt lên: “ Chiêu Văn Vương là anh em với ta”.
Nhật Duật từ tốn: “ Chúng ta xưa nay đã là anh em rồi”. Rồi sau đấy theo, lệnh Nhật Duật, tiểu đồng mở tráp lấy ra những chiếc vòng bạc sáng loá trao cho từng đầu mục Đà Giang. Những người cầm đầu đạo Đà Giang chỉ còn biết đón lấy tặng phẩm kết nghĩa theo đúng tục lệ của họ từ tay viên tướng triều đình mà họ vừa nhận là anh em. Chúa đạo Đà Giang đã quy thuận. Sức mạnh của dân tộc như được nhân lên.
( Theo Các triều đại Việt Nam) 
Ở truyện này chủ yếu là cho HS thấy được rằng nhà Trần có nhiều nhân tài, bổ sung thêm về sự chuẩn bị chu đáo của nhà Trần.
Ví dụ 3. Khi dạy bài 16 – Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV, ở mục II có thể kể về Hồ Nguyên Trừng cho HS thấy được tài năng của ông, từ đó tăng thêm lòng tự hào dân tộc:
HỒ NGUYÊN TRỪNG
Hồ Nguyên Trừng, con cả của Hồ Quý Ly không chỉ làvị tướng có tài mà còn là một công trình sư lỗi lạc được coi ông tổ của nghề đúc súng thần công Việt Nam. Việc ông lập một phòng tuyến chống giặc bắt đầu bằng cứ điểm then chốt Đa Bang (Ba Vì, Hà Tây ) kéo dài theo bờ Nam sông Đà cho đến sông Ninh (Hà Nam) rồi lại tiếp tục theo bờ sông Luộc, sông Thái Bình đến Bình Than dài trên 400 km, đã tỏ ra ông là một nhà quân sự kiệt xuất. Hồ Nguyên Trừng cũng sáng tạo ra cách đánh độc đáo: ông cho đúc nhiều cây xích lớn chăng qua những khúc sông hiểm trở, kết hợp với quân mai phụctrang bị hoả lực mạnh, từng khiến cho thuỷ quân giặc nhiều phen khiếp đảm. Tuy vậy nói đến Hồ Nguyên Trừng người ta thuờng nhắc đến công sáng chế súng thần cơ của ông.
Thời ấy, do yêu cầu chống giặc ngoại xâm, muốn có nhiều súng trang bị cho các thành trì và các hạm đội, Hồ Nguyên Trừng đã phải gấp tổ chức những xưởng đúc súng lớn. Nhờ thông minh tuyệt vời cùng khả năng suy nghĩ phi thường, ông đã đúc kết những kinh nghiệm cổ truyền trên cơ sở đó, phát minh, chế tạo ra những loại súng có sức công phá khủng khiếp. Từ việc cải tiến súng, chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của đạn, Nguyên trừng phát minh ra phương pháp đúc súng mới gọi là súng “thần cơ”. Súng thần cơ của ông có đầy đủ các bộ phận của loại súng thần công sau này. Nòng súng là một ống được đúc bằng sắt hoặc đồng. Phía đuôi súng được đúc kín có bộ hận ngòi cháy nổ ở chỗ nhồi thuốc nổ. Đạn pháo là mũi tên bằng sắt lớn. Khi bắn, người ta nhồi thuốc súng phía đáy rồi đặt mũi tên vào giữa và nhồi loại đạn bằng sắt và chì. Súng thần cơ có nhiều loại: loại nhỏ dùng cho bộ binh bắn xa áng chừng 700 mét. Hồ Nguyên Trừng đặc biệt cho đúc nhiều súng thần cơ cỡ lớn, gọi là “thần cơ pháo”. Thần cơ pháo thực chất là thấn cơ cỡ lớn được đặt trên thành hoặc trên xe kéo cơ động. Quân minh bao phen kinh hoàng về loại sùng này mà không hiểu nổi. Nhưng cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại vì không được nhân dân ủng hộ, trong lúc quân giặc dương cao cờ “phù Trần diệt Hồ”. Giặc Minh bắt được nhiều súng thần cơ, bắt được cả nhà sáng chế ra nó. Trong “Vân Đài loạn ngữ”, Lê Quý Đôn nhắc đến một chi tiết: “quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng”.
Nếu nhớ lại rằng vào thời Hồ Nguyên Trừng, thế giới đang thai nghén về súng đại bác thì chúng ta càng tự hào về những sáng chế của ông.
(Theo Các triều đại Việt Nam) 
	Lúc kể những câu chuyện lịch sử chính là lúc HS tập trung chú ý lắng nghe, đó là cơ hội tốt để giáo dục tư tưởng cho HS, làm cho HS càng thêm yêu dân tộc mình, biết thêm những điều mà trong SGK chưa cung cấp nhưng lại rất cần thiết trong cuộc sống, trong quá trình học tập của mỗi con người.
Nguyên tắc khi kể chuyện trong giờ học lịch sử là không kể tràn lan và phải thông qua câu chuyện để làm nổi bật nội dung bài, giáo dục tư tưởng cho HS, 
Sử dụng hình ảnh minh họa.
Hình ảnh minh họa rất có giá trị trong học tập. Nó giúp HS có thể hình dung vấn đề rõ hơn, từ đó để lại ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ HS. Giúp HS có thể nhớ được lâu hơn. Đồng thời giúp HS không bị lạc lõng khi bắt gặp một hình ảnh nào đó mang tính lịch sử.
Trong thời địa bùng nổ của công nghệ thông tin, giáo viên ngoài việc tận dụng kênh hình trong SGK thì có thể tận dụng mạng internet để có được những hình ảnh rất đẹp phục vụ cho việc dạy lịch sử.
Trước hết giáo viên tìm hình mà mình cần rồi sau đó in ra giấy A4 . Tùy điều kiện mà giáo viên có thể in hình màu hay đen trắng. Nếu là hình màu thì HS dễ quan sát và thu hút HS nhiều hơn. Trong lúc sử dụng cần đặt các câu hỏi để HS suy nghĩ tìm ra các vấn đề liên quan đến hình ảnh chứ không để cho HS nhìn hình chỉ vì nó lạ, đẹp.
Đối với các nhân vật lịch sử có thể đặt dạng câu hỏi như: Ông là ai? Sống dưới triều đại nào? Ông có công lao gì? Ta có thể học được gì nơi ông?  Đối với các hình là những chùa chiền có thể hỏi: tên của chùa là gì? Nó liên quan đến triều đại nào, sự kiện lịch sử nào? Qua hình đó thể hiện điều gì (liên quan đến bài học)? và giáo dục tư tưởng cho HS.
Ví dụ 1: khi dạy bài 10 – Nhà Lý đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước, ở mục 1 – Sự thành lập nhà Lý, có thể sử dụng hình ảnh:
 Tượng Lý Thái Tổ ở Hà Nội
Khi HS đọc xong mục 1 giáo viên có thể cho HS xem hình và đặt câu hỏi để HS xác định tượng trong hình là ai. Khi xác định được giáo viên lại hỏi về thân thế của họ. Từ đó giáo viên dựa vào hình để tổng kết, nêu lên công lao của Lý Công Uẩn.
	Ví dụ 2. khi dạy bài 12 – Đời sống kinh tế, văn hóa, ở mục II2 giáo viên có thể sử dụng hình chùa Một Cột trong SGK trang 48 hoặc hình sau (mặt sau của chùa):
Chùa Một Cột ở thủ đô Hà Nội
Giáo viên có thể hỏi HS những hiểu biết về ngôi chùa này như: năm xây dựng, kiểu kiến trúc, sự dộc đáo của nó,  Từ đó giáo viên khắc sâu những kiến thức liên quan làm cho HS có ấn tượng sâu sắc về ngôi chùa. Từ đây các em có thể giải đáp cho bất cứ ai hỏi về ngôi chùa, cho dù đó là người nước ngoài.
Ngoài chùa Một Cột, thời Lý còn có nhiều ngôi chùa nổi tiếng khác có thể dùng để làm nổi bật kiến trúc thời Lý như: chùa Keo, chùa Phật Tích ( Bắc Ninh), chúa Thầy(Hà Tây), 
Tất cả những tấm hình này giáo viên có thể dễ dàng tìm thấy trân mạng Internet. Nhưng khi lấy trên mạng giáo viên chú ý phải lấy những hình ảnh có độ phân giải cao mới bung ra giấy A4 đẹp.
Ví dụ 3. Ngoài ra giáo viên có thể sử dụng một số hình ảnh sau đề làm cho mục II 2 được rõ hơn (Những ngôi chùa được xây dựng hoặc đại tu dưới thời Lý):
Bố cục của Văn miếu Quốc tử giám
Tượng A –di – đà (chùa Phật Tích – Bắc Ninh)
Chùa Trấn Quốc (được trùng tu dưới thời Lý)
Chùa Keo(Hà Tây)
Địa thế Hoa Lư (Ninh Bình)
3. Cung cấp tư liệu cho học sinh.
	SGK thường cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản. Đó là một việc làm hết sức cần thiết, không cần phải bàn cải. Nhưng bây giờ thử hỏi, học xong lịch sử lớp 7 mà HS không biết nhà Lý có những vị vua nào, nhà Trần có những vị vua nào? Lý Thường Kiệt là ai? Chu Văn An là ai? Thì đã thực sự hợp lý hay chưa. Vì vậy để HS của mình có cái nhìn khái quát hơn, cụ thể hơn thì giáo viên nên cung cấp cho HS những tư liêu cần thiết.
	Tư liệu cung cấp cho HS phải phục vụ cho việc học của HS, tư liệu đó HS có thể sử dụng lâu dài trong cuộc sống. 
	Khi cung cấp tư liệu giáo viên không được bắt ép HS phải có nó mà phải để cho HS hoàn toàn tự nguyện sử dụng. Giáo viên chỉ cố gắng động viên cho HS có được nó và sử dụng.
	Ví dụ 1: khi dạy bài 8 – Nước ta buổi đầu độc lập, giáo viên có thể hỏi: từ trước đến nay nước ta có những tên gọi nào?
	HS sẽ trả lời nhưng chắc chắn không đầy đủ. Từ đó giáo viên cho HS thấy sự cần thiết phải biết các quốc hiệu của nước mình (như đặt ra trường hợp một người nước ngoài hỏi chẳng hạn, nếu không trả lời được thì sẽ như thế nào). Bây giờ giáo viên có thể cung cấp cho HS tư liệu về Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kì:
	Quốc hiệu Việt Nam
Dưới đây là danh sách các quốc hiệu chính thức của Việt Nam theo dòng lịch sử. Các quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, hoặc được chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế.
1. Văn Lang
Văn Lang là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam. Quốc gia này có kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ gồm khu vực Đồng bằng Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ.
2. Âu Lạc
Năm 257 TCN, nước Âu Lạc được dựng lên, từ liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán - An Dương Vương. Âu Lạc có lãnh thổ bao gồm lãnh thổ của Văn Lang trước đây và một phần đông nam Quảng Tây.
Khoảng cuối thế kỷ thứ 3 TCN, đầu thế kỷ thứ 2 TCN (năm 208 TCN hoặc 179 TCN), Triệu Đà (quận úy Nam Hải-nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, nhà nước Âu Lạc bị diệt vong.
3. Vạn Xuân
Vạn Xuân là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602 thì bị nhà Tùy tiêu diệt.
4. Đại Cồ Việt
Đại Cồ Việt là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà Lý, do Đinh Tiên Hoàng đặt năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 86 năm đến năm 1054, đời vua Lý Thánh Tông đổi sang quốc hiệu khác.
5. Đại Việt
Đại Việt là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý, bắt đầu từ năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại không liên tục (gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh), đến năm 1804, trải qua các vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 743 năm.
6. Đại Ngu
Đại Ngu (nghĩa là Niềm vui lớn) là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ. Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền. Sau khi nhà Hồ bị thất bại trước nhà Minh, và nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho Việt Nam, quốc hiệu của Việt Nam đổi lại thành Đại Việt.
7. Việt Nam
Quốc hiệu Việt Nam chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long sử dụng từ năm 1804.
Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi (1380-1442) nhiều lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam". Điều này còn được đề cập rő ràng trong những tác phẩm của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Người ta cũng tìm thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngő yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).
8. Đại Nam
Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam, ngụ ý một nước Nam rộng lớn. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945.
9. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là tên gọi của cả nước Việt Nam từ 1945 đến đến 1976. Nhà nước được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (ngày quốc khánh của Việt Nam ta ngày nay). 
10. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội khóa 6 nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này được sử dụng từ đó đến nay.
Ví dụ 2: khi dạy bài 13 – Nước Đại Việt ở thế kỉ XIII, giáo viên có thể đặt câu hỏi: Nhà Lý tồn tại bao nhiêu năm? Trải qua mấy đời vua?
	Với câu hỏi này chắc chắn sẽ có nhiều HS không thể trả lời vì các em kông có tư liệu tham khảo. Bây giờ giáo viên có thể cung cấp tư liệu cho HS:	
CÁC TRIỀU ĐẠI VIỆT NAM
TRIỀU NGÔ(939 - 965), kinh đô CỔ LOA (Đông Anh, Hà Nội) 
1. Ngô Quyền (939 – 944)
2. Hậu Ngô vương (gồm Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập)(950 – 965)
TRIỀU ĐINH(968 – 980), quốc hiệu ĐẠI CỒ VIỆT,kinh đô HOA LƯ (Ninh Bình) 
1. Đinh tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh ,968 – 979)
2. Phế Đế (Đinh Toàn, 979 – 980) 
TRIỀU TIỀN LÊ(980 – 1009), kinh đô HOA LƯ 
1. Lê Đại Hành (Lê Hoàn, 980 – 1005)
2. Lê Trung Tông (1005)
3. Lê Long Đỉnh (1005 – 1009)
*Dương Vân Nga
TRIỀU LÝ(1010 – 1225) ,quốc hiệu ĐẠI CỒ VIỆT, kinh đô HOA LƯ. Năm 1010 dời đô về THĂNG LONG, từ năm 1054 đổi quốc hiệu là ĐẠI VIỆT 
1. Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn,1010 – 1028)
2. Lý Thái Tông (1028 – 1054)
3. Lý Thánh Tông (1054 – 1072)
4. Lý Nhân Tông (1072 – 1127)
*Nguyên Phi Ỷ Lan 
5. Lý Thần Tông (1128 – 1138)
6. Lý Anh Tông (1138 – 1175)
7. Lý Cao Tông (1176- 1210)
8. Lý Huệ Tông (1211 - 1224)
9. Lý Chiêu Hoàng (Chiêu Thánh công chúa – 1225)
 Triều Lý tồn tại 216 năm thì tan rã. Trải qua 9 đời vua .
TRIỀU TRẦN(1225 – 1400), quốc hiệu ĐẠI VIỆT, kinh đô THĂNG LONG 
1. Trần Thái Tông (Tần Cảnh , 1225 – 1258)
2. Trần Thánh Tông (1258 – 1272)
3. Trần Nhân Tông (1279 – 1293)
4. Trần Anh Tông (1293 – 1314)
5. Trần Minh Tông (1314 – 1329)
6. Trần Hiến Tông (1329 – 1341)
7. Trần Dụ Tông (1314 – 1369)
8. Trần Nghệ Tông (1370 – 1372)
9. Trần Duệ Tông (1372 – 1377)
10. Trần Phế Đế (1377 -1388)
11. Trần Thuận Tông (1388 – 1398)
12. Trần Thiếu Đế (1398 – 1400)
* Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn 
* Thượng Tướng Thái Sư Trần Thủ Độ 
*Chiêu Văn Đại Vương Trần Nhật Duật 
 Như vậy triều Trần kể từ Thái Tông Trần Cảnh đến Trần Thiếu Đế, là 12 ông vua, trị vì được 175 năm. Cơ nghiệp nhà Trần bắt đầu suy vi từ Dụ Tông và Nghệ Tông. Nghệ Tông thì hoang chơi, không lo đến chính sự, làm loạn cả kỉ cương phép nước, làm dân nghèo nước yếu. Nghệ Tông thì bạc nhược không phân biệt hiền gian để kẻ quyền thần được thể làm loạn, tự mình nối giáo cho giặc khiến cho cơ nghiệp nhà Trần tan vở .
TRIỀU HỒ (1400 – 1407)quốc hiệu ĐẠI NGU, kinh đô TÂY ĐÔ ở THANH HOÁ 
1. Hồ Quý Ly (1400)
2. Hồ Hán Thương (1401 – 1407 )
 	 *Hồ Nguyên Trừng (ông tổ của nghề đúc súng thần công Việt Nam )
TRIỀU HẬU TRẦN (1407 – 1413)
 1. Giản Định Đế (1407 – 1409)
 2. Trùng Quang Đế (1409 – 1413 )
 Từ năm 1414 đến 1417 Đại Việt năm dưới sự thống trị của nhà Minh .
TRIỀU LÊ SƠ (1428 – 1527),quốc hiệu ĐẠI VIỆT, kinh đô ĐÔNG ANH (Hà Nội)
1. Lê Thái Tổ (Lê Lợi ,1428 – 1433)
2. Lê Thái Tông (1434 – 1442)
3. Lê Nhân Tông (1443 – 1459) 
4. Lê Thánh Tông (1460 – 1497)
5. Lê Hiến Tông (1497 – 1504)
6. Lê Túc Tông (1504)
7. Lê Uy Mục (1505 – 1509)
8. Lê Tương Dực (1510 – 1516)
9. Lê Chiêu Tông (1516 – 1522)
10. Lê Cung Hoàng (1522 – 1527)
Như vậy là triều Lê Sơ kể từ Lê Thái Tổ lên ngôi (1428) đến Cung Hoàng (1527) gồm 10 đời vua, cả thảy đúng 100 năm. Nếu kể cả thời gian Lê Lợi dấy quân xưng là Bình Định Vương năm mậu tuất (1418) là 110. Đây là thời các vua Lê nắm được trọn quyền cai trị đất nước. Các nhà sử học gọi là thời Lê Sơ để phân biệt với Lê Trung Hưng về sau .
TRIỀU MẠC (1527 – 1592), kinh đô ĐÔNG ANH (Hà Nội)
1. Mạc Đăng Dung (1527 – 1529)
2. Mạc Đăng Doanh 1530 – 1540)
3. Mạc Đăng Hải (1541 - 1546)
4. Mạc Đăng Nguyên(1546 - 1561)
5. Mạc Đăng Hợp (1562 - 1592)
TRIỀU HẬU LÊ (LÊ TRUNG HƯNG )
NAM BẮC TRIỀU (1533 - 1548)
 Năm 1527 , Mạc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Lê lập nên triều Mạc. Năm 1533 nhà Lê lại được dưng lên trên đất Lào. Mặc dù vua ở đất Lào nhưng đã có niên hiệu, các nhà chép sử gọi đây là thời Trung Hưng. Năm 1543 nhà Lê chiếm được Tây kinh (Thanh Hoá), từ đó nhà Lê cai quản từ Thanh Hoá, Nghệ An trở vào cùng với sự giúp đỡ của họ Nguyễn rồi họ Trịnh (Nam Triều). Vùng Bắc Bộ thuộc quyền họ Mạc (Bắc Triều). Từ đó bắt đầu một cuộc nội chiến kéo dài khốc liệt hơn 50 năm, gọi là nội chiến Nam – Bắc triều. Nhà Mạc sau đó bị nhà Lê tiêu diệt. 
Lê Trang Tông (1533 – 1548)
Lê Trung Tông (1548 – 1556)
Lê Anh Tông (1556 – 1573)
VUA LÊ – CHÚA TRỊNH
Họ Trịnh có công lớn trong việc khôi phục nhà Lê nên vua Lê Trang Tông tuy ngồi ở ngôi chí tôn nhưng quyền hành đều do Trịnh Kiểm nắm giữ .Có nghĩa là bên cạnh vua là chúa nên gọi là vua Lê – chúa Trịnh.
Lê Thế Tôn (1573 – 1599)
TRỊNH - NGUYỄN PHÂN TRANH 
Lê Kính Tôn (1600 – 1619)
Lê Thần Tông (1619 – 1643 )
Lê Chân Tông (1643 – 1649)
Lê Thần Tông (1649 – 1662)
Lê Huyền Tông (1663 – 1671)
Lê Gia Tông (1672 – 1675)
Lê Hy Tông (1676 – 1705)
Lê Dụ Tông (1705 – 1728)
Hôn Đức Công (1729 – 1732)
Lê Thuần Tông (1732 – 1735)
Lê Y Tông (1735 – 1740)
Lê Hiến Tông (1740 – 1786)
Lê Mẫn Đế (1787 – 1789)
DÒNG DÕI CHÚA TRỊNH (1545 – 1786)
Thế tổ minh khang Trịnh Kiểm (1545 – 1570)
Thành tổ triết vương Trịnh Tùng (1570 – 1623)
Văn tổ nghị vương Trịnh Tráng (1623 – 1652)
Hoằng tổ dương vương Trịnh Tạc (1653 – 1682)
Chiêu tổ khang vương trịnh Căn (1682 – 1709)
Hi tổ nhân vương Trịnh Cương (1709 – 1729)
Dụ tổ thuận vương Trịnh Giang (1729 – 1740)
Nghị tổ ân vương Trịnh Doanh (1940 – 1767 )
Thái tổ tịnh vương Trịnh Sâm (1767 – 1782)
Đoạn nam vương Trịnh Tông (1782 – 1786)
An đô vương Trịnh Bồng (1786 – 1787)
DÒNG DÕI CÁC CHÚA NGUYỄN (1600 – 1802)
Nguyễn Kim (cha của Nguyễn Hoàng ) có công lớn trong việc trung hưng nhà Lê. Khi Nguyễn Kim chết thì Trịnh Kiểm tìm cách thâu tóm quyền lực thì tìm cách loại bỏ con của Nguyễn Kim, chỉ còn Nguyễn Hoàng biết giữ mình nên sống sót Nguyễn Hoàng muốn trả thù nhưng chưa biết làm sao thì được trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên: Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”(có nghĩa là :một dải núi Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời ). Hoàng nhờ chị gái nói với Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ Thuận Hoá(Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay) .
Nguyễn Hoàng (1600 – 1635)
Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635) 
Nguyễn Phúc Lan(1635 – 1648)
Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687)
Nguyễn Phúc Trăn (1687 – 1691)
Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725)
Nguyễn Phúc Chú (1725 – 1738)
Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765 )
Nguyễn Phúc Thuần (1765 – 1777)
Nguyễn Phúc Anh (1780 – 1802)
TRIỀU TÂY SƠN (1778 – 1802), kinh đô PHÚ XUÂN (Huế)
Thái Đức Hoàng Đế (Nguyễn Nhạc ,1778 – 1793)
Quang Trung Hoàng Đế (Nguyễn Hụê, 1789 – 1792 )
Cảnh Thịnh Hoàng Đế (1792 – 1802)
TRIỀU NGUYỄN (1802 – 1945), quốc hiệu VIỆT NAM từ Minh Mạng(1838)là ĐẠI NAM, kinh đô HUẾ (Thừa – Thiên ) 
THỜI KÌ ĐỘC LẬP
Gia Long Hoàng Đế (Nguyễn Anh, 1802 – 1819)
Minh Mệnh Hoàng Đế (1820 – 1841)
Thiệu Trị Hoàng Đế (184 – 1847)
Tự Đức Hoàng Đế (1848 – 1883)
 THỜI KÌ THUỘC PHÁP 
Dục Đức (làm vua ba ngày )
Hiệp Hoà (1883 – 1883)
Kiến Phúc (1883 – 1884)
Hàm Nghi (1883 – 1885 )
Đồng Khánh (1885 – 1888 )
Thành Thái (1889 – 1907 )
Duy Tân (1907 – 1916 )
Khải Định (1916 – 1925 )
Bảo Đại (tên thật là Vĩnh Thuỵ, vị hoàng đế cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam, 1926 – 1945) 
	Đã cung cấp tư liệu thì trong quá trình dạy học giáo viên cần cho HS vận dụng để các em thấy kiến thức đó là bổ ích. Có như vậy thì HS mới chịu đọc, còn không thì dù có các em cũng bỏ đó mà không dung tới.
	Chẳng hạn: khi gọi HS lên bảng ngoài các câu hỏi trong chương trình thì giáo viên có thể sử dụng câu hỏi phụ để hỏi HS về những kiến thức bổ sung như: hãy kể tên các vua thời Lý. Làm như vậy HS sẽ cố gắng đọc để biết thêm.
	Ví dụ 3. Cũng trong mục II2 – bài 12 – Đời sống kinh tế, văn hóa có nói đến Nho giáo, 

File đính kèm:

  • docSKKN_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot_su_7.doc