Ôn tập Ngữ văn 12 - Nghị luận xã hội

Câu II. Mối quan hệ giữa Tài và Đức

TRẢ LỜI

I. Mở bài:

- Bàn về mối quan hệ giữa Tài và Đức, Hồ Chí Minh có nói: "Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó"

II. Thân bài:

1. Giải thích ý nghĩa câu nói:

- Tài: tài năng, là khả năng vượt trên mức bình thường trong quá trình xử lí một việc gì đó. Con người có thể có tài trên nhiều lĩnh vực.

- Đức: Là tình cảm, thái độ ứng xử trong cuộc sống của con người.

- Theo quan niệm của Bác thì chữ Tài và chữ Đức phải kết hợp, song hành, nếu thiếu đi một chữ thì con người đó cũng chưa gọi là hoàn hảo.

 

doc18 trang | Chia sẻ: dung89st | Lượt xem: 1167 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ôn tập Ngữ văn 12 - Nghị luận xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có rất nhiều trong xã hội ngày nay.
Trong lĩnh vực nông nghiệp: Bệnh thành tích lan tràn đến mức báo động. Từ việc xóa đói giảm nghèo đến việc áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, chăn nuôihay việc thực hiện chính sách xã hội khác. (Dẫn chứng).
Trong lĩnh vực công nghiệp: Nhiều xí nghiệp, nhà máy, công tylàm ăn không có hiệu quả, lời giả lỗ thật, hằng năm Nhà nước vẫn phải bù lỗ nhưng báo cáo thành tích lại rất hay, rất nổi; thậm chí còn được khen thưởng hoặc trao tặng huân chương
Trong lĩnh vực xây dựng: Nhiều công trình quan trọng cấp quốc gia bị làm nhanh, làm ẩu để lấy thành tích, bị “rút ruột”, gây thất thoát, lãng phí rất lớn cho ngân sách Nhà nước, ảnh hướng đến đời sống nhân dân. (Dẫn chứng).
+ Tác hại của “bệnh thành tích”.
“Bệnh thành tích” dẫn đến sự thoái hóa nhân cách, con người sẽ trở nên thiếu trung thực, dối trá, gian lận, lừa mình, lừa bạn
“Bệnh thành tích” ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống và cản trở sự phát triển của xã hội.
+ Những biệp pháp khắc phục “bệnh thành tích”.
Mỗi người cần nhận thức, đánh giá một cách khách quan, đúng đắn về năng lực của bản thân, tránh ảo tưởng về mình, tránh thói “tốt khoe, xấu che”.
Xã hội cần kiên quyết nói “không!” với “bệnh thành tích” bằng cách thắt chặt các biện pháp kiểm tra, thanh tra chất lượng công việc, không đánh giá hời hợt qua hình thức bên ngoài.
Cần có mức độ xử lí kĩ luật thích đáng đối với những kẻ cố tình mắc “bệnh thành tích”, gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Kết bài
- Chúng ta phải nhận thức rõ rằng “bệnh thành tích” là thói xấu, là hiện tượng tiêu cực cản trở quá trình phát triển của đất nước. Vì thế cần phải dứt khoát từ bỏ “bệnh thành tích” và phải trung thực với chính mình.
- Trong hoàn cảnh mở cửa giao lưu, hội nhập với toàn cầu, căn bệnh này không thể tồn tại. Mỗi công nhân phải có thái độ nghiêm túc và trung thực trong học tập và làm việc thì mới có thể thành công trong sự nghiệp.
- Phải khiêm tốn học hỏi điều hay, điều tốt của các nước tiên tiến và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Nếu làm được như vậy thì không bao lâu nữa, mục tiêu phấn đấu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh sẽ trở thành hiện thực.
ĐỀ:
 “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui” 
Ý kiến của anh (chị) về câu nói trên 
TRẢ LỜI
I. Kĩ năng:
- Vận dụng các thao tác lập luận: giải thích, chứng minh, bình luận...
- Trình bày ý rõ ràng, mạch lạc, nêu được những suy nghĩ riêng của bản thân. 
II. Các ý chính: 
1. Quan niệm về niềm vui trong cuộc sống. 
2. Niềm vui được đến trường của HS: 
a. Được tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất. 
b. Được sống trong một môi trường thân thiện với thầy, cô, bạn bè .
c. Được rèn luyện, hoàn thiện nhân cách .
d. Được mang lại niềm vui cho nhiều người khác. 
3. Những suy nghĩ sai lệch về việc đến trường của những học sinh chưa nhận thức đúng về học tập. 
4. Sự bất hạnh của những người không được đến trường. 
5. Khẳng định niềm vui, niềm hạnh phúc lớn, ý nghĩa cuộc sống khi được đến trường. 
6. Những hành động tích cực của bản thân để niềm vui đến trường ngày càng được nhân lên.
Câu 1 : (8 điểm)
Bài học cuộc sống rút ra từ lời tâm sự của nữ nhà văn Mĩ Helen Keller:
"Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để đi giày."
TRẢ LỜI
Yêu cầu về kỹ năng và kiến thức:
- Nắm vững phương pháp làm bài văn nghị luận xã hội, đáp ứng các yêu cầu về văn phong.
- Bố cục chặc chẽ, lý lẽ xác đáng, dẫn chứng phù hợp.
- Hạn chế các lỗi diễn đạt; chữ rõ, bài sạch.
- Học sinh có thể trình bày vấn đề theo nhiều cách. Sau đây là một số định hướng cơ bản:
1. Giải thích:
"đã khóc": Sự buồn bã, đau xót và tuyệt vọng, buông xuôi;
- "không có giày để đi": Hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn (về vật chất);
- "không có chân để đi giày": Hoàn cảnh bất hạnh, nghiệt ngã (của số phận);
- "đã... cho đến khi": Sự nhận thức, "ngộ" ra một vấn đề cuộc sống.
* Ý nghĩa của lời tâm sự:
Sự thiếu thốn, khó khăn của riêng ta chẳng thấm gì nếu so sánh với những xót đau, bất hạnh của nhiều người khác quanh ta.
2. Bình luận - Rút ra bài học:
- Cuộc sống của mỗi người vốn luôn có thể gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Trước những điều đó, con người - nếu thiếu bản lĩnh, nghị lực và nhận thức - dễ buồn đau, thất vọng, buông xuôi.
- Tuy nhiên, nếu bước ra cuộc đời, hoặc nhìn lại xung quanh, ta sẽ thấy có những con người phải chịu những thiệt thòi, bất hạnh hơn ta rất nhiều.
- Nhận thức về điều đó, một mặt, ta phải tự vươn lên hoàn cảnh của chính mình - bởi thực ra, nó chưa thực sự đáng sợ như ta nghĩ; mặt khác, phải hiểu rằng: chính hoàn cảnh khó khăn ấy là sự thử thách, tôi luyện để ta ngày càng trưởng thành, hoàn thiện.
- Cuộc sống của mỗi người được quyết định bởi sự tự nhận thức, bản lĩnh và nghị lực vươn lên không ngừng. Hơn thế nữa, ta còn phải nhìn ra cuộc đời để nhận biết, đồng cảm, chia sẻ; từ đó mà thêm động lực, thêm tin yêu để sống, làm việc và cống hiến.
II. BÀI LÀM
Câu 1:
Cuộc sống quả thật rất kì lạ. Có những con người sinh ra được hưởng đầy đủ mọi ưu ái vật chất và tinh thần. Nhưng lại có những người bất hạnh mất đi một phần ưu ái đó. Và trớ trêu thay khi những người có đầy đủ mọi thứ lại thường cảm thấy không thỏa mãn khi thiếu đi một thứ vật chất thông thường nào đó. Họ cứ mãi nghĩ về bản thân mình mà không biết rằng xung quanh còn có biết bao nhiêu người còn kém may mắn hơn mình rất nhiều. Nữ nhà văn Mĩ Hellen Keller đã từng như thế cho đến một ngày bà chợt nhận ra những may mắn mà mình được hưởng, bà tâm sự "Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để đi giày". Lời tâm sự chân thành đó đã đánh thức biết bao cảm xúc trong trái tim mỗi người.
Không đề cập trực tiếp đến vấn đề hay nêu ra bài học, chỉ bằng một câu kể rất thực nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa, Hellen Keller đã khiến mọi người phải suy ngẫm, phải nhìn nhận lại những gì mình đang có để trân trọng, để giữ gìn.
"Tôi đã khóc vì không có giày để đi" đó là một lời thú nhận rất chân thành, trung thực bởi lẽ đối với những người sống trong đủ đầy, quen có đủ mọi thứ thì sẽ cảm thấy buồn, thấy chán nản khi không có "giày" hay có thể nói là những phụ kiện vật chất cần thiết để làm đẹp cho mình, làm mình tự tin. Tôi đã thấy nhiều cô bé, cậu bé, nhiều bạn học sinh-những người sinh ra được nhận tình yêu thương của bố mẹ, được sống hạnh phúc, ấm no... trở nên bướng bĩnh, giận dỗi hay khóc vì bố mẹ không đáp ứng những nhu cầu của mình, thậm chí có những người nông nổi vì giận bố mẹ mà bỏ nhà đi hay làm bất cứ việc gì để được thứ mình muốn. Thế nhưng, họ đâu biết rằng ở ngoài xã hội, ở xung quanh chúng ta hay thậm chí ngay cạnh nhà bạn lại có những cảnh đời bất hạnh, tồn tại biết bao con người "không có chân để đi giày". Hình ảnh rất thực ấy nói về những người khuyết tật hay nói rộng ra là những người thiếu may mắn, những người sinh ra đã không được cuộc sống, được tạo hóa thương yêu để ban tặng những thứ cần thiết cho mỗi con người. Hai vế câu đối lập trong lời tâm sự của nhà văn Mĩ được kết nối với nhau bởi cụm từ "cho đến khi tôi nhìn thấy" giống như một sự nhận thức, một lời thức tỉnh đối với biết bao người. Sống trên đời đâu phải chỉ có riêng mình gặp khó khăn hay thiếu thốn. Hãy tự nhìn bên ngoài kia còn biết bao người kém may mắn hơn, họ không chỉ thiếu thốn vật chất, không chỉ thiếu thốn tình thương mà có người còn không thể tự chăm sóc mình, phải sống nhờ vào người khác hay phải nhận những ánh nhìn tội nghiệp của người xung quanh. Những người như vậy mới thực sự là kém may mắn, đáng để "khóc" hơn chúng ta.
Đọc lời tâm sự của Hellen, tôi chợt nhớ đến người thầy giáo đáng kính Nguyễn Ngọc Ký - người bị tật nguyền đôi tay và phải dùng đôi chân của mình để tập viết. Đã nhiều lần, những khó khăn, vất vả, những lần bị chuột rút đến quặp cả bàn chân, đau đớn đến vã mồ hôi nhưng sức mạnh của niềm tin, sức mạnh được nhân lên cả với sự mặc cảm đối với cuộc sống đã giúp thầy "đứng vững", dũng cảm bước tiếp và trở thành một nhà giáo ưu tú. Hay những cậu học sinh bị mất đôi chân, những người mù hoặc không thể nói nhưng bằng trí óc, bằng những gì mà họ còn lại vẫn dũng cảm vượt qua khó khăn để sống tốt đẹp. Tôi tin chắc rằng không ít lần họ rơi nước mắt, không ít lần muốn bỏ cuộc nhưng họ vẫn can đảm, chính những gì họ đang thiếu hay không có đã thúc đẩy họ, đem đến sức mạnh giúp họ thành công. Vậy thì mỗi chúng ta, những người có đầy đủ chân tay, những người có thể lao động để nuôi sống mình tại sao phải buồn khi ta thiếu đi một đôi giày hay chiếc áo, chiếc quần? Hãy nhìn những tấm gương đó, hãy soi mình vào đó để tự hỏi và tự biết chúng ta hơn họ những gì nhưng lại thua họ những thứ căn bản này. Có một triết gia nổi tiếng đã nói rằng: "Tôi hạnh phúc vì có đủ cả tay lẫn chân". Được sinh ra trọn vẹn là một con người, được có thể bằng đôi tay và đôi chân để tự lao động, tự nuôi sống bản thân, kiếm được đồng tiền chính nghĩa đã là một hạnh phúc lớn nhất cả đời người! Đừng vì những thứ nhỏ nhất, những vật phòng thân bên ngoài mà tự cho mình là khổ, mà đánh mất sức mạnh của mình.
Chỉ là một lời tâm sự, cảm nhận rút ra từ cuộc sống, từ thực tế mình quan sát nhưng Hellen Keller đã thức tỉnh, đã đánh lên một hồi chuông báo động cho những người chỉ chăm chăm nghĩ đến mình, ích kỉ hay tự ti. Lời tâm sự đó đã trở thành một bài học ý nghĩa một chiêm nghiệm sâu sắc không chỉ dành riêng cho một cá nhân nào mà là cho tất cả mọi người về một cuộc sống, một cách sống tích cực trong xã hội: Phải biết ơn cuộc sống ban cho ta những điều đáng quý, hãy trân trọng những gì mình đang có và cố gắng hết sức mình để giành lấy những gì mình mong muốn. Đừng bao giờ buông xuôi bởi "không có gì là không thể"! Hãy sống dũng cảm và kiên cường như cô bé Aya trải qua năm tháng bệnh tật, đã qua đời trong nước mắt thương tiếc của mọi người và những đóa hồng đỏ thắm bao quanh.
Người chiến thắng cuối cùng chưa hẳn là người mạnh nhất mà là người có đủ niềm tin, dũng cảm và nghị lực nhất.
Cuộc sống không lấy hết của ai điều gì và con đường đi đến thành công không phải bao giờ cũng trải đầy hoa hồng. Chính vì thế hãy sống tích cực để đến "khi chúng ta qua đời, mọi người khóc còn chúng ta cười". Nữ nhà văn Mĩ Hellen Keller thực sự đã tìm ra một chân lí cuộc sống, một cách sống đẹp, sống tốt và quan trọng hơn hết là để lại một bài học đáng quý cho tất cả chúng ta.
Câu II. Mối quan hệ giữa Tài và Đức
TRẢ LỜI
I. Mở bài:
- Bàn về mối quan hệ giữa Tài và Đức, Hồ Chí Minh có nói: "Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó"
II. Thân bài:
1. Giải thích ý nghĩa câu nói:
- Tài: tài năng, là khả năng vượt trên mức bình thường trong quá trình xử lí một việc gì đó. Con người có thể có tài trên nhiều lĩnh vực.
- Đức: Là tình cảm, thái độ ứng xử trong cuộc sống của con người.
- Theo quan niệm của Bác thì chữ Tài và chữ Đức phải kết hợp, song hành, nếu thiếu đi một chữ thì con người đó cũng chưa gọi là hoàn hảo.
2. Bình luận mở rộng:
- Nguyễn Du từng nói: "Có tài mà cậy chi tài - Chữ tài liền với chữ tai một vần". Người có Tài nhưng nếu không có Đức thì chỉ là kẻ vô dụng, con người đó người ta còn gọi là "hữu dũng vô mưu". Người có Tài mà chỉ biết đến bản thân tài năng của mình, không chú ý rèn luyện đạo đức thì cũng không làm nên nghiệp lớn.
- Kẻ có Đức mà không có Tài thì đứng trước một việc sẽ không biết làm gì cả, làm gì cũng sẽ thấy khó khăn. Có ý muốn làm nhưng "Lực bất tòng tâm".
- Bởi vậy một con người muốn thành công thì phải biết kết hợp, biết cân đối giữa Tài và Đức, không nên để lệch giữa 2 phạm trù này.
3. Chứng minh bằng dẫn chứng cụ thể.
(Trong phần này, có thể lấy những ví dụ trong cuộc sống, văn học cũng như trong lịch sử để chứng minh.
- Người có Tài mà không có Đức:
- Người có Đức mà không có Tài: 
- Người có cả Đức lẫn Tài
4. Liên hệ thực tế, rút ra bài học cho bản thân.
- Câu nói của Bác giúp em có suy nghĩ gì để hoàn thiện bản thân mình?
III. Kết bài:
- Khẳng định giá trị câu nói của Bác luôn luôn đúng trong mọi hoàn cảnh, thời đại, là kim chỉ nam cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.
MỘT SỐ ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
I. NGHỊ LUẬN VỀ TƯ TƯỞNG ĐẠO LÍ:
ĐỀ: “Người hạnh phúc là người đem đến hạnh phúc cho nhiều người khác” (Đi-đơ-rô). Suy nghĩ của em về câu nói trên?
1. MỞ BÀI:
- Hạnh phúc là mục đích mà cả nhân loại hằng ao ước muôn đời. Hạnh phúc là gì? Sống như thế nào để có hạnh phúc.
- Đi-đơ-rô, nhà tư tưởng lớn của nước Pháp đã có câu trả lời đáng cho mọi người suy nghĩ.
2. THÂN BÀI:
- Luận điểm 1: Trả lời câu hỏi: Hạnh phúc là gì? Câu nói có ý nghĩa gì?
+ Có nhiều cách trả lời khác nhau: là sự thoả mãn những khao khát trong đời sống; là sự thành công sau những thất bại để đạt được mục đích đã được đặt ra.
+ Điều chung nhất của hạnh phúc: sự mãn nguyện, cảm thấy mình đã sống đúng với ý nghĩa của sự sống.
- Luận điểm 2: Đánh giá ý nghĩa câu nói
+ Câu nói đã khẳng định một số lối sống đúng đắn, tốt đẹp. Hạnh phúc của một các nhân phải gắn liền với hạnh phúc của người khác.
+ Đây cũng là lối sống mà các bậc hiền triết ngày xưa, dân tộc ta luôn đề cao. Dẫn chứng: Đạo phật khuyên người ta yêu thương muôn loài, dân tộc khuyên “Thương người như thể thương thân”; vua Lí Thánh Tông thấy con gái mình mặc áo ấm mà thương cho những tù nhân giá rét trong ngục
- Luận điểm 3: Bàn bạc, nêu ý kiến bản thân: Sống như thế nào là đem đến hạnh phúc cho nhiều người?
+ Là làm được những viện to lớn, thoả mãn niềm mong ước của nhiều người, của nhân loại. Dẫn chứng: nhà phát minh, một bậc anh hùng giải phóng dân tộc.
+ Trong cuộc sống đời thường: hết lòng giúp đỡ người khác không chỉ một lần mà là suốt cả cuộc đời.Dẫn chứng: Nhà bác học Pax-tơ hạnh phúc khi cứu được em bé và tìm được thuốc chủng ngừa; một bà xơ chăm sóc những người bị bệnh phong,
+ Đạo lí của câu nói đòi hỏi hành động tích cực: không chỉ yêu thương mà còn “đem lại hạnh phúc” cho nhiều người. Đòi hỏi sự quên mình, lấy hạnh phúc của mọi người làm hạnh phúc của mình, có thể xả thân vì hạnh phúc của mọi người.
3. KẾT BÀI:
- Ít nhất một lần trong đời, ai cũng đặt câu hỏi: Hạnh phúc là gì? Sống như thế nào để có hạnh phúc?
- Hãy một lần nghĩ và làm theo phương châm của Đi-đơ-rô.
ĐỀ: Anh (chị) hãy trả lời câu hỏi sau của nhà thơ Tố Hữu:
“ Ôi ! Sống đẹp là thế nào, hỡi bạn? ”
* DÀN BÀI GỢI Ý:
I. MỞ BÀI:
- Tố Hữu tuổi thanh niên đã “Bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời”, “Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước” và đã chọn lí tưởng Cộng sản, chọn lối sống đẹp, “là con của vạn nhà”. Vì vậy, ông rất chú ý đến lối sống, “sống đẹp”.
- Cho nên trong những khúc ca của lòng mình, Tố Hữu đã tha thiết gieo vào lòng người, nhất là thế hệ trẻ, câu hỏi: 
“Ôi! Sống đẹp là thế nào, hỡi bạn.”
II. THÂN BÀI:
1.Giải thích “Sống đẹp”?
- Sống đẹp là sống có lí tưởng (mục đích sống) đúng đắn, cao cả, tâm hồn, tình cảm lành mạnh, nhân hậu, trí truệ (kiến thức) mội ngày mở rộng sáng suốt, hành động tích cực, lương thiện.
- Một tập thể có lối sống đẹp là một tập thể đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống.
 - Với thanh niên, học sinh muốn trở thành người “ sống đẹp” cần:
 + Chăm chỉ học tập, khiêm tốn học hỏi, biết nuôi dưỡng hoài bão, ước mơ
 + Thường xuyên tu dưỡng và rèn luyện đạo đức, có tinh thần bao dung, độ lượng
 - Những tấm gương hi sinh cao cả vì lý tưởng: Hồ Chí Minh, Nguyễn Trãi, Trần Bình Trọng, Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu(Phân tích, chứng minh)
o “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”
(Từ ấy - Tố Hữu). 
o “Sống là cho, chết cũng là cho”
(Tố Hữu).
- Một gương người tốt, việc tốt trong đời sống thường ngày (phân tích, chứng minh).
2. Khẳng định lối sống đẹp:
+ Là mục đích, lựa chọn, biểu hiện của con người chân chính, xứng đáng là người
+ Có thể thấy ở những vĩ nhân nhưng cũng có ở con người bình thường; có thể là hành động cao cả, vĩ đại, nhưng cũng thấy trong hành vi, cử chỉ thường ngày
+ Chủ yếu thể hiện qua lối sống, hành động.
2. Sống không đẹp: Những con người vì lợi ích riêng tư mà quên đi lợi ích chung của xã hội: bóp méo sự thật; nịnh bợ cấp trên, hạ uy tín của người khác nhằm trục lợi cho mình, chia rẽ tập thể.
- Đối với học sinh không nghe lời thầy, lừa cha mẹ để đi vào con đường xấu, sống không có mục đích, không có lý tưởng
 - Liên hệ bản thân
III. KẾT BÀI:
- Cần phải thường xuyên học tập và rèn luyện bản thân để từng bước hoàn thiện nhân cách.
- Là học sinh được trực tiếp nghe những lời chỉ dẫn và dạy bảo của thầy cô giáo, tôi vá các bạn hãy luôn sống sao cho cuộc sống của mình có ích cho xã hội
- Khẳng định ý nghĩa của lối sống đẹp: là chuẩn mực đạo đức, nhân cách của con người
Nhắc nhở mọi người coi trọng lối sống đẹp, sống cho xứng đáng; cảnh tỉnh sự mất nhân cách của thế hệ trẻ trong đời sống nhiều cám dỗ hiện nay
ĐỀ: Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường, không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng kiên định thì không có cuộc sống? 
(Lép-Tôn-xtôi). 
	Anh (chị) hiểu câu nói ấy thế nào và có suy nghĩ gì trong quá trình phấn đấu tu dưỡng lí tưởng của mình.
* DÀN BÀI GỢI Ý:
I. MỞ BÀI:
1. Giải thích
- Giải thích lí tưởng là gì? (Điều cao cả nhất, đẹp đẽ nhất trở thành lẽ sống mà người ta mong ước và phấn đấu thực hiện.)
- Tại sao không có lí tưởng thì không có phương hướng?
+ Không có mục tiêu phấn đấu cụ thể
+ Thiếu ý chí vươn lên để giành điều cao cả
+ Không có lẽ sống mà người ta mơ ước
- Tại sao không có phương thì không có cuộc sống?
+ Không có phương hướng phấn đấu thì cuộc sống con người sẽ tẻ nhạt, sống vô vị, không có ý nghĩa, sống thừa.
+ Không có phương hướng trong cuộc sống giống người lần bước trong đêm tối không nhìn thấy đường.
+ Không có phương hướng, con người sẽ hành động mù quáng nhiều khi sa vào vòng tội lỗi (chứng minh)
- Suy nghĩ như thế nào?
+ Vần đề cần bình luận: con người phải sống có lí tưởng. Không có lí tưởng, con người thực sự sống không có ý nghĩa.
+ Vần đề đặt ra hoàn toàn đúng
+ Mở rộng:
* Phê phán những người sống không có lí tưởng
* Lí tưởng của thanh niên ngày nay là gì? (Phấn đấu có nội lực mạnh mẽ, giỏi giang đạt đỉnh cao trí tuệ và luôn kết hợp với đạo lí
* Làm thế nào sống có lý tư
III. KẾT BÀI
- Câu nói của Lép Tôn-xtôi đã để lại nhiều ‎nghĩa thật sâu sắc và đầy tính nhân văn khi ông đã nhấn mạnh sự quan trọng của lí tưởng đối với mỗi người qua việc ví lí tưởng với phương hướng kiên định và cuộc sống. 
- Cuộc sống ngày càng khác đi, mỗi người chúng ta cần có một lí tưởng để thực hiện trong cuộc đời, luôn phấn đấu để hoàn thành lí tưởng của mình: trở thành một công dân có ích cho xã hội, đóng góp sức mình vì sự nghiệp chung của dân tộc. Để mỗi ngày trôi qua, sẽ có thêm một ngày mới được chiếu sáng bởi lí tưởng cuộc đời..
I. NGHỊ LUẬN VỀ HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG:
ĐỀ: Bày tỏ suy nghĩ về tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay.
I. MỞ BÀI:
- Ngày nay, môi trường rất cần thiết đối với cuộc sống của con người. Môi trường cung cấp cho con người những điều kiện thiết yếu để sống: ăn, ở, mặc, hít thởNếu không có những điều kiện đó con người không thể sống, tồn tại và phát triển được.
- Môi trường bị ô nhiễm ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ và cuộc sống của con người. - Để đảm bảo sự phát triển bền vững, con người cần phải sống thân thiện với môi trường, giữ gìn, bảo vệ môi trường trong sạch.
- Cuộc sống sẽ ra sao nếu tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn còn tiếp diễn?
II. THÂN BÀI:
- Giải thích:
+ Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật.
+ Môi trường sống của con người theo nghĩa rộng là tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người.
- Vai trò của môi trường đối với đời sống con người:
+ Môi trường là không gian sinh sống cho con người và thế giới sinh vật.
+ Môi trường chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống và sản xuất của con người.
+ Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải của đời sống và sản xuất.
+ Môi trường là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.
- Thực trang ô nhiễm môi trường:
+ Môi trường tự nhiên (đất, nước, không khí,) bị ô nhiễm, bị huỷ hoại ngh

File đính kèm:

  • docTuan_32_On_tap_phan_Lam_van_20150725_040922.doc
Giáo án liên quan