Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy tập đọc cho học sinh lớp 2

Sách giáo khoa vừa đạt yêu cầu về nội dung vừa được trình bày theo hướng giao tiếp và hoạt động là điều kiện mở đường định hướng cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, học sinh có cơ hội tham gia hoạt động một cách chủ động tiếp thu kiến thức, hình thành kỹ năng một cách chắc chắn. Chính trong quá trình giáo tiếp và hoạt động nhân cách học sinh được hình thành và phát triển mới thực sự chuyển được cái biết thành cái làm trong thực tế đời sống của các em. Đó chính là kỹ năng sống. Khi đã có kỹ năng sống các em có thái độ sống tích cực, tự tin, tự trọng trong giao tiếp xã hội, luôn tự khám phá và cố gắng vươn lên trong cuộc sống.

Muốn thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của môn Tập đọc đòi hỏi mỗi một giáo viên phải xem đổi mới phương pháp là nhiệm vụ trọng tâm trong đổi mới chương trình, sách giáo khoa hiện nay. Đổi mới phương pháp dạy học cũng cố nghĩa là đổi mới phương pháp học tập của học sinh. Quy trình và biện pháp dạy học được trình bày cụ thể trong sách giáo viên đã thực sự giúp giáo viên tổ chức tổ chức giảng dạy một cách linh hoạt. Ngay từ khi tiếp thu chương trình thay sách bản thân tôi đã xác định được tầm quan trọng của phân môn Tập đọc, đã thấy được tính ưu việt của chương trình, sgk, sgv. Tuy nhiên, càng trực tiếp giảng dạy tôi như càng bị cuốn hút bởi sự say sưa học tập của học sinh. Sự tiến bộ của học sinh càng thôi thúc tôi quyết tâm tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình giảng dạy. Đây chính là lí do khiến tôi chọn đề tài này.

 

doc11 trang | Chia sẻ: dungnc89 | Lượt xem: 1141 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy tập đọc cho học sinh lớp 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 hoạt trong quá trình giảng dạy, kỹ năng đọc của học sinh còn chậm. Việc luyện đọc từ khó – giảng từ của giáo viên còn nhiều bất cập, nên giờ học đã kết thúc mà có khi học sinh chưa được tìm hiểu cái hay, cái đẹp, cái dí dóm trong nội dung bài tập đọc hoặc giáo viên tham nói tham giảng từ dài dòng mà học sinh không được luyện học bài. Được trực tiếp giảng dạy qua những giờ đồng nghiệp tôi nhận thấy tình trạng này diễn ra không phải là ít. Rõ ràng sách giáo khoa, thiết bị dạy học đã được điều chỉnh, thay đổi hợp lý mà những vướng mắc, lúng túng, khó khăn của giáo viên đứng lớp vẫn còn đó. Nói đúng hơn việc đổi mới phương pháp dạy học bây giờ thuộc về trách nhiệm của giáo viên. Người giáo viên cần làm gì? Làm như thế nào? Để tiết học nhẹ nhàng, đem lại hiệu quả cao trong giảng dạy tập đọc là điều tôi còn băn khoăn, trăn trở. Thông qua giảng dạy tôi đã tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp và một phần những việc làm mà bản thân đã khám phá ra trong giảng dạy với một mong muốn:“Có thể là phương thuốc để chữa căn bệnh” hiện nay của một số giáo viên.
PHẦN II: PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
 	1- Căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung phương pháp dạy học môn Tiếng Việt lớp 2.
	2- Căn cứ vào sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2.
	3- Căn cứ vào các tạp chí giáo dục Tiểu học – Tạp chí thế giới trong ta và các tài liệu có liên quan.
	4- Dựa vào tình hình thực tế giảng dạy ở lớp 2A, tình hình các lớp ở trừơng Tiểu học Quảng Thuận và các trường lân cận như: Quảng Thọ, Ba Đồn.
	5- Qua tìm hiểu lắng nghe ý kiến của một số giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 2.
 6- Tự đúc rút kinh nghiệm trong thực tế giảng dạy của bản thân.
	7- Đúc rút từ những ý kiến đóng góp của Ban giám hiệu và các đồng chí chỉ đạo chuyên môn.
PHẦN III: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.
 1- Thực trạng tình hình:
 Thực tế giảng dạy cho thấy rằng: qua 4 năm học thực hiện đổi mới giáo dục trên toàn quốc chất lượng học sinh có tiến bộ rõ rệt. Đặc biệt là các em mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Nhiều học sinh đọc rất hay mặc dù yêu cầu đọc diễn cảm chưa đặt ra đối với học sinh lớp . Thông qua luyện đọc học sinh bước đầu đã hiểu nghĩa từ chìa khoá để hiểu nội dung bài tập đọc, có khả năng nghe và nhận xét bạn đọc. Tuy nhiên do địa bàn trường tôi là khu vực nông thôn, trình độ dân trí chưa cao - đời sống nhân dân còn thấp – nên ngoài việc học ở lớp học sinh phải làm nón (mặc dù là học sinh lớp 2) ít có thời gian để tiếp xúc với xã hội nên các em rụt rè, còn thẹn thùng khi ứng xử các tình huống giao tiếp trong sách giáo khoa ,đọc lí nhí khi được gọi. Số lượng học sinh phát âm sai do nói “chớt” còn nhiều. 
	- Giáo viên tiếp xúc với chương trình sách giáo khoa mới và vận dung sách giáo viên bước đầu còn lúng túng, khó khăn.
	- Cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu, thiết bị dạy học phục vụ cho Tiếng Việt lớp 2 còn thiếu như: Tranh, các thiết bị sử dụng dạy học còn thiếu. Bàn ghế chưa đảm bảo quy cách khó cho giáo viên trong khi thay đổi hình thức tổ chức dạy học.
	- Một số ít phụ huynh còn giao khoán việc học của con em mình cho cô giáo và nhà trường.
	Sau đây là một số kết quả điều tra thực tế. Kết quả điều tra kỹ năng đọc của học sinh lớp 2A3 do tôi phụ trách trong đợt khảo sát chất lượng đầu năm như sau:
SL
Đọc diễn cảm
Đạt chuẩn
Còn chậm
Đọc đánh vần
Tỉ lệ
%1
Tỉ lệ
%25
Tỉ lệ
%6
Tỉ lệ
%4
31
0
22
7
5
73% học sinh hiểu được nội dung bài tập đọc trong đó có chỉ có 10% nói trọn câu, 53% trả lời câu hỏi trọng tâm.
42% học sinh biết nghe và có nhận xét bạn đọc song đa số nhận xét còn vụn vặt.
25% học sinh tỏ ra mạnh dạn trong giải quyết, xử lý tình huống giao tiếp của bài tập đọc.
76% học sinh hứng thú, thích học tập đọc.
 2- Một số giải pháp cụ thể:
	Trước tình hình thực tế dạy học của trường, là một tổ trưởng chuyên môn tôi đã làm tốt công tác tham mưu. Nhà trường quyết định tổ chức chuyên đề Tập đọc lớp 2, 3 ngay trong trường để rút kinh nghiệm sau đó cụm chuyên môn Quảng Thuận – Ba Đồn đã liên kết tổ chức chuyên đề này để đúc rút kinh nghiệm trong toàn cụm. Bản thân tôi được cụm cử trình bày phần lý thuyết. Sau một năm triển khai thực hiện chuyên đề Tập đọc bản thân tôi đã thực hiên một số biện pháp cụ thển trong giờ tập đọc như sau:
 2.1. Giáo viên cần đọc mẫu tốt:
	 a) Đọc mẫu toàn bài:
	Việc đọc mẫu của giáo viên là cần thiết vì muốn học sinh đọc đúng giáo viên phải giới thiệu mẫu đúng. Lời đọc mẫu của giáo viên nhằm định hướng cho học sinh đọc đồng thời giúp học sinh nhận thức đúng nội dung bài học. Nếu là văn bản nghệ thuật còn có tác dụng khơi gợi hứng thú và sự tưởng tượng của học sinh – giúp các em dễ đi vào thế giới của tác giả, tác phẩm dưới một ánh sáng hấp dẫn hơn. Với văn bản nghệ thuật đọc mẫu của giáo viên là đọc diễn cảm. Còn văn bản thông thường đọc mẫu là đọc đúng. Yêu cầu đọc diễn cảm chưa đặt ra với học sinh lớp 2, nhưng nếu giáo viên biết khích lệ, động viên học sinh sẽ bắt chước thầy cô. Giáo viên đọc mẫu tốt, chuẩn mực thì không có gì đáng ngại nếu như học sinh bắt chước thầy cô. 
	 b) Đọc mẫu câu, đoạn:
	Nhằm hướng dẫn, gợi ý, tạo tình huống để học sinh nhận xét tự tìm ra cách đọc.
	Ví dụ: Khi đọc bài: Ông Mạnh thắng Thần Gió giáo viên đọc đoạn 2 cho học sinh so sánh với cách đọc đoạn 1 yêu cầu học sinh nói đoạn 1: Đọc với giọng kể, chậm rãi.
Đoạn 2: Nhịp nhanh hơn, nhấn mạnh những từ tả sự ngạo nghễ của thần gió, sự tức giận của ông Mạnh như: “Xô, ngã lăn quay, lồm cồm, quật, ngạo nghễ”.
	 c) Đọc từ, cụm từ : Nhằm giúp học sinh sửa sai do phát âm, rèn cách đọc, nâng cao ý thức viết đúng cho học sinh.
 2.2. Cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của từ, ngữ:
	 a) Cho học sinh đọc từ chú giải lúc nào cho hợp lý? 
	Nhiều ý kiến cho rằng, việc cho học sinh đọc từ chú giải trong sách giáo khoa là không cần thiết. Giáo viên chỉ cần nêu câu hỏi nếu học sinh giải thích được nghĩa của từ là xem như học sinh đã được đọc phần chú giải? Vậy nếu như những bài tập đọc như: “Voi nhà” Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 có 6 từ chú giải mà giáo viên cứ đặt câu hỏi lôi 6 từ ra để học sinh trả lời thì thời gian đâu để tổ chức hoạt động khác? Chuyên đề 25 tháng 3 năm 2002 đã nói rõ: “Cần cho học sinh đọc chú giải trong giờ tập đọc”. Tạp chí thế giới trong ta nêu quan niệm: Chú giải là một bộ phận cần đọc. Đọc để ghi nhớ từ mới là tăng vốn từ cho học sinh. Đọc để nắm được cách giải nghĩa từ khi cần. Song nên tổ chức cho học sinh đọc từ chú giải lúc nào cho hợp lý? Theo tôi phần chú giải cần tổ chức cho học sinh đọc thầm, trong khi học sinh đọc thầm nối tiếp nhau từng đoạn trong nhóm là hợp lý nhất. Sau đó học sinh lại đọc thành tiếng theo nhóm trước lớp. Có thể học sinh đọc chú giải mà vẫn chưa hiểu nghĩa của từ giáo viên 
vận dụng cơ hội này để giảng từ, nhằm mở rộng vốn từ cho học sinh.
	Đến bước tìm hiểu bài giáo viên vẫn còn thời cơ để kiểm tra, cũng cố nghĩa của từ (nếu cần), bằng cách đặt câu hỏi, tìm hiểu nội dung thông qua đó rút từ chìa khoá để giảng cho học sinh. Cách kiểm tra có thể yêu cầu học sinh nhắc lại nghĩa của từ, tìm từ gần nghĩa, cùng nghĩa, trái nghĩa hoặc đặt câu với từ cần giải nghĩa. Chính ở bước này, những từ khó có thể ở địa phương các em chưa hiểu, hoặc từ chìa khoá giáo viên có thể kết hợp giảng để học sinh hiểu nội dung.
 b) Xác định từ ngữ cần giảng trong bài như thế nào cho hợp lý:
	Đây là điều mà chúng tôi đưa ra bàn cãi rất nhiều. Nếu như giáo viên không biết xác định từ ngữ cần giảng thì tiết học sẽ dàn trải, thiếu trọng tâm, chiếm nhiều thời gian mà nhiệm vụ của tiết học vẫn không hoàn thành.
	Theo tôi các từ ngữ cần giảng trong bài tập đọc là:
	+ Từ ngữ được chú giải trong sách giáo khoa.
	+ Từ ngữ phổ thông mà học sinh chưa quen.
	+ Từ ngữ đóng vai trò quan trọng là “chìa khoá” để mở nội dung bài học.
	Trong một bài tập đọc cần xác định từ cần giảng và cách xác định từ là điều mà nhiều giáo viên còn lúng túng. Giảng ít từ khi thấy còn thiếu, giảng nhiều từ dẫn đến tham nói mất thời gian. Việc rút từ để tìm hiểu nội dung bài tập đọc là việc khó nhất trong giờ tập đọc. Theo tôi có 2 căn cứ giúp giáo viên rút từ chính xác, trọng tâm đó là: 
	- Căn cứ vào nội dung cần truyền thụ chính là mục tiêu bài dạy.
	- Căn cứ tên bài (tiêu đề bài tập đọc). Giáo viên cần lưu ý việc giảng từ khó và rút từ chìa khoá hoàn toàn khác nhau. Từ khó hiểu chỉ yêu cầu học sinh đọc chú giải để hiểu nghĩa của từ. Còn từ chìa khoá là từ yêu cầu học sinh hiểu để nắm nội dung bài. Khi từ khó trùng với từ chìa khoá giáo viên ghi ở phần “tìm hiểu bài” (phần ghi bảng).
	Có 6 cách giải nghĩa từ:
	+ Đặt câu với từ cần giải nghĩa.
	+ Tìm từ đồng nghĩa.
	+ Từ trái nghĩa.
	+ Miêu tả sự vật,đặc điểm được biểu thị ở từ cần giải nghĩa.
	+ Tách từ để miêu tả.
	+ Sử dụng đồ dùng dạy hoc( vật thật, tranh ảnh)
Cách tìm hiểu từ chủ yếu là phải đặt trong ngữ cảnh. Cần giới hạn việc giải nghĩa từ trong phạm vi nghĩa cụ thể bài đọc giải nghĩa, đơn giản với học sinh lớp 2 – tránh dài dòng, giải nghĩa cồng kềnh quá tải làm mất thời gian luyện đọc của học sinh.
Ví dụ: Bài tập đọc: “Sơn Tinh, Thuỷ Tinh”
Phần chú giải có 7 từ. Đó là: cầu hôn, lễ vật, ván, nộp, ngà, cựa, hồng mao.	Các từ trên là từ khó hiểu nghĩa đối với các em song không phải là từ chìa khoá. Giáo viên cần căn cứ vào nội dung. Câu chuyện nhằm giải thích nạn lũ lụt ở nước ta là do Thuỷ Tinh ghen tức Sơn Tinh gây ra và nói lên tinh thần chống lũ của nhân dân nên từ chìa khoá ở đây là: đùng đùng nổi giận, cuồn cuộn, đuối sức. Việc rút từ chìa khoá của giáo viên không yêu cầu từ nào cũng 
phải giải nghĩa mà chủ yếu là để học sinh hiểu được nội dung bài.
 2.3. Rèn kỹ năng đọc đúng chỗ ngắt giọng cho học sinh:
	Có 2 kiểu ngắt giọng: Ngắt giọng logic và ngắt giọng biểu cảm.
	Ngắt giọng logic là những chỗ dùng để tách nhóm trong câu. Ngắt giọng logic phụ thuộc vào ý nghĩa và quan hệ giữa các từ trong câu.
	Ngắt giọng biểu cảm đối lập với ngắt giọng logic đó là những chỗ nghỉ lâu hơn bình thường hoặc chỗ nghỉ không do logic ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc nhằm tạo ra ấn tượng về cảm xúc.
 a) Kỹ năng ngắt giọng logic:
Khi đọc một văn bản nếu gặp dấu câu ta cần phải ngắt, nghỉ giáo viên cần hướng dẫn học sinh sau dấu chấm, dấu hai chấm, chấm cảm ta cần phải nghỉ. Song sau dấu chấm xuống dòng cần nghỉ lâu hơn sau dấu chấm. Sau dấu phẩy ta phải ngắt giọng, sau dấu phẩy có lúc cũng phải ngắt giọng khác nhau. Dấu phẩy ngăn cách giữa vế và câu ngắt lâu hơn, dấu phẩy sau trạng ngữ. Khi đọc một số bài văn xuôi có những câu dài, cấu trúc ngữ pháp phức tạp học sinh thường ngắt tuỳ tiện như sau :
Ví dụ 1 :Trong bài : Sơn Tinh- Thủy Tinh ( sách Tiếng Việt 2)
Học sinh đọc : Từ đó/ năm nào Thuỷ Tinh cũng dâng nước đánh/ Sơn Tinh gây lũ lụt khắp nơi/ nhưng lần nào Thuỷ Tinh cũng chịu thua. Học sinh đã tách Sơn Tinh ra khỏi động từ “đánh” làm người nghe hiêủ sai ý nghĩa của câu văn .
Ví dụ 2: Khi đọc một số câu thơ do không chú ý đến quan hệ ngữ pháp mà chỉ chú ý đến sự cân đối về âm thanh mà học sinh đã ngắt nhịp sai.
Anh Lừa / lo chuyện / gạo tiền.
Giấy tờ thỏ chạy/ giao liên tài tình.
Nếu học sinh ngắt nhịp như trên đã tách cụm từ thỏ chạy ra khỏi cụm “giao liên tài tình” làm người nghe tưởng như chú giao liên tài tình chứ không phải “thỏ chạy giao liên tài tình” để khắc phục tình trạng đó với lớp 2 thì việc luyện đọc, đọc mẫu của giáo viên là cần thiết. Ngoài ra giáo viên cũng cần giảng để học sinh hiểu nội dung câu văn, câu thơ, quan hệ ngữ pháp để học sinh điều chỉnh nếu như học sinh đọc sai.
 b) Ngắt giọng biểu cảm: Dạy cho học sinh biết cách ngắt giọng logic là yêu cầu quan trọng với học sinh lớp 2 giáo viên có thể dạy cho học sinh ngắt giọng biểu cảm ở một số bài thơ đây là phương tiện tác động người nghe. Ngắt giọng logic thiên về trí tuệ còn ngắt giọng biểu cảm thiên về cảm xúc.
Ví dụ: Khi đọc 2 câu thơ cuối của bài tập đọc “Thư trung thu” (sách Tiếng Việt 2 tập 2 trang 10). Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc. 
Các cháu/ hãy xứng đáng
Cháu Bác Hồ Chí Minh.
Ngắt nhịp như thế người nghe sẽ thấy được tình cảm yêu thương sâu sắc của Bác và đó chính là lời động viên khuyến khích cũng là lời khuyên của Bác đối với thiếu nhi. Qua đó để thấy được tình yêu bao la của Người đối với các em.
Tóm lại: Đọc đúng chỗ ngắt giọng và ngắt giọng hay là yêu cầu, mục đích của việc dạy tập đọc là phương tiện để phát triển ngôn ngữ cho học sinh.
 Thực tế giáo viên chúng ta chưa am hiểu sâu sắc về lý luận văn học tuy nhiên nếu giáo viên đầu tư, chuẩn bị bài kỹ lưỡng, đọc bài nhiều lần để tìm cách đọc đúng, chuẩn xác ,cách đọc hay nhất để có mẫu tốt cho học sinh học tập. Muốn vậy theo tôi giáo viên cần:
+ Nắm vững nội dung bài, tính cách nhân vật, giọng điệu của câu chuỵên, bài tập đọc, bài thơ.
+ Nắm được cốt truyện – nội dung các đoạn truyện.
+ Nắm thể loại thơ để chọn cách đọc, giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng, ngọt ngào hay chua ngoa.
+ Nắm được cấu trúc ngữ pháp của câu thơ, câu văn.
 2.4. Sử dụng trò chơi học tập:
	Đối với trẻ em trò chơi đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt, bước vào nhà trường, trẻ em làm quen với hoạt động học tập với những yêu cầu cao hơn. Chúng ta – những nhà sư phạm thấy rằng nếu biết sử dụng kết hợp hình thức trò chơi trong học tập sẽ đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy trò chơi được sử dụng trong các tiết dạy học có tác dụng tích cực nhằm làm thay đổi hình thức học tập. Thông qua trò chơi không khí lớp học trở nên thoải mái, dễ chịu .Việc tiếp thu kiến thức của học sinh trở nên tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên giáo viên cũng cần biết tổ chức trò chơi như thế nào cho hợp lý, không nên quá lạm dụng trò chơi, biến tiết học thành một hoạt động vui chơi vô bổ.
	Trò chơi học tập cần có yêu cầu khác với trò chơi thông thường.
	+ Chơi để đạt mục đích học tập nào? Ngoài giải trí còn có mục đích cũng cố tri thức, kỹ năng học tập.
	+ Nội dung học tập phải gắn với các tri thức và kỹ năng của một nhóm học hoặc một lĩnh vực tri thức, kỹ năng nào đó. Nói cách khác khi sáng tạo ra trò chơi thì người giáo viên cần dựa vào các kiến thức và kỹ năng của môn học. 
	+ Trò chơi học tập cần có luật chơi rõ ràng đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện không đòi hỏi thời gian dài. Trò chơi học tập thường diễn ra thời gian ngắn, phù hợp với trình độ học sinh.
Sau đây là một số trò chơi mà bản thân tôi thường sử dụng trong tiết dạy tập đọc:
 	Ví dụ: Khi dạy các bài tập đọc đầu tuần như bài: “Tôm Càng và Cá Con” Tôi tổ chức cho học sinh trò chơi “Thi đọc truyện phân vai” học sinh được thảo luận theo nhóm 4 – mỗi nhóm cử 3 em, một em được chọn đọc lời người dẫn truyện, một em đọc lời Tôm Càng, một em đọc lời của Cá Con. Sau khi học sinh đọc trong nhóm, giáo viên tổ chức cho từng nhóm tham gia thi đọc truyện phân vai. Giáo viên dành thời gian cho 2, 3 nhóm thi. Giáo viên cùng ban khảo nhận xét đánh giá chung và chọn nhóm đọc tốt để biểu dương.(Ban giám khảo do học sinh bầu ra)
	Đối với những tiết ôn tập ở từng giai đoạn ôn giữa kỳ I, kỳ II, cuối kỳ I, kỳ II tôi thường tổ chức trò chơi “nghe đọc đoạn, đoán tên bài”.
	Hai nhóm tham gia chơi ngồi đối diện nhau. Cử nhóm trưởng điều hành hoạt động chung cả nhóm. Bắt thăm hoặc “oẳn tù tì” để chọn nhóm đọc trước. Nhóm đọc trước (A) được mở sách giáo khoa để lựa chọn đoạn văn (trong số các câu chuyện kể do giáo viên nêu ra, nhóm A cử người đọc đoạn cho nhóm B đoán tên chuyện, đoán tên bài tập đọc sau đó nhóm B đọc nhóm A đoán tên câu chuyện).
	Khi đoán tên bài tập đọc hoặc tên chuyện cả nhóm không được mở sách giáo khoa.
	Hai nhóm tham gia chơi đều được tính điểm so sánh – nếu tổ chức cho cả 4 nhóm cùng chơi – khi kết thúc giáo viên chọn nhóm giỏi nhất để khen ngợi. Nếu điểm bằng nhau, nhóm nào đọc rõ ràng, rành mạch chính xác hơn là nhóm đó thắng cuộc.
	Ngoài ra với cách tổ chức trò chơi ở tập đọc giáo viên có thể tổ chức một số trò chơi như : Thi đọc đồng thanh ; biết một câu, đọc cả đoạn ; tìm nhanh- đọc đúng ; nhớ nhanh, đọc đúng ; ghép các dòng thơ thành bài ; đọc thơ truyền điện,...
Qua thực tế giảng dạy việc tổ chức trò chơi học tập đã tạo hứng thú và thu hút nhiều học sinh tham gia. Nếu biết sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, các trò chơi học tập có tác dụng tích cực tạo chất lượng cao cho bài học. Chúng ta cũng nên tránh tổ chức trò chơi lặp đi lặp lại trong tiết không đủ hấp dẫn để thu hút sự chú ý của học sinh. Theo tôi với các tiết tập đọc chỉ nên sử dụng trò chơi vào cuối tiết học, khi xuất hiện yêu cầu cũng cố kiến thức, kỹ năng đã học. Tuỳ theo tiết học giáo viên có thể vận dụng linh hoạt tổ chức trò chơi cho từng phần bài dạy của mình (nếu thấy cần thiết) thì hiệu quả giờ dạy đạt chất lượng cao.
 3. Những kết quả đạt được
	Sau một thời gian trực tiếp giảng dạy, với tất cả sự tâm huyết của mình bản thân tôi đã tìm tòi, tự học, tự đúc rút kinh nghiệm dần dần khắc phục các tồn tại của bản thân nên đã thu được một số kết quả như sau:
 3.1- Về giáo viên: 
Tôi đã thâm nhập và sử dụng thành thạo, linh hoạt quy trình lên lớp một tiết tập đọc biết kết hợp nhuần nhuyễn việc đọc câu với luyện đọc từ khó, tiếng khó chữa lỗi cho học sinh triệt để. Việc giải nghĩa từ khó và rút từ chìa khoá trong giảng dạy đã thành thạo, biết kết hợp để ghi bảng cho hợp lý. Triệt để khai thác các câu hỏi trong sách giáo khoa, chỉ đặt câu hỏi phụ khi cần thiết để dẫn dắt học sinh trả lời câu hỏi chính. Lối tham giảng, nói nhiều đã được gột bỏ dần. Ba

File đính kèm:

  • docSang_kien_kinh_nghiem_tap_doc_l2.doc