Giáo án Ngữ văn 10: Trao duyên (2 tiết) - Nguyễn Du

*Tiểu kết:

- Nội dung: 12 câu thơ đầu là lời nhờ cậy, giãi bày, thuyết phục của Thúy Kiều với Thúy Vân trước một sự việc hệ trọng mà nàng sắp thực hiện.

- Nghệ thuật:

+ Ngôn ngữ của Nguyễn Du có sự kết hợp hài hòa giữa cách nói trang trọng, văn hoa và giản dị, nôm na của cách nói dân gian.

+ Sử dụng các điển tích: keo loan, tơ duyên đi đôi với các thành ngữ: tình máu mủ, lời nước non, thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối

 làm cho lời giãi bày và thuyết phục của Thúy Kiều chạm đúng vào niềm thương cảm và lay động được lòng trắc ẩn của Thúy Vân trong đêm trao duyên.

 

docx15 trang | Chia sẻ: dung89st | Lượt xem: 25182 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Ngữ văn 10: Trao duyên (2 tiết) - Nguyễn Du, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của đoạn trích phải chậm rãi và tha thiết. Hơn nữa càng về sau, Thúy Kiều gần như chỉ nói với chính mình (độc thoại nội tâm) cho nên giọng đọc càng khẩn thiết não nùng hơn. Em hãy đọc lại đoạn trích và tưởng tượng một khung cảnh tâm sự giữa hai chị em Thúy Kiều - Thúy Vân và nêu nội dung chính của diễn biến câu chuyện?
GV dẫn: Sau khi chấp nhận bán mình làm lẽ Mã Giám Sinh, Thúy Kiều “Một mình nàng ngọn đèn khuya/ Áo dầm giọt lệ, tóc xe mái sầu”, “Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân/ Dưới đèn ghé xuống ân cần hỏi han”. Lúc này, Thúy Kiều mới bộc lộ hết tâm sự, ý nguyện của mình với em.
“Ngó môi ra cũng thẹn thùng
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai”
Hoạt động 2: GV hướng dẫn HS đọc – hiểu đoạn trích.
* Tìm hiểu tâm trạng, thái độ của Thúy Kiều khi tâm sự, cậy nhờ Thúy Vân.
GV yêu cầu và đặt câu hỏi cho HS: Em hãy đọc thầm 12 câu đầu đoạn trích, lắng nghe Thúy Vân tìm cách thuyết phục và trao duyên cho em mình. Cách thuyết phục này có gì đặc biệt, nhất là về phương diện ngôn từ? Tại sao Nguyễn Du dùng từ “cậy” mà không dùng từ “nhờ”, dùng từ “chịu” mà không dùng từ “nhận” ở đây?
- HS đọc văn bản, suy nghĩ, trả lời.
GV phân tích: Đây là một hoàn cảnh đặc biệt: Thúy Kiều nhờ em một việc thiêng liêng, tế nhị – một việc thật không dễ thực hiện, cho nên việc dùng từ “cậy” và từ “chịu” ở đây vừa gẫn gũi, thể hiện được tình chị em ruột thịt, vừa khẩn thiết, quan trọng.
- Nếu thay như vậy, nội dung và tính chất cuộc tâm sự sẽ giảm nhẹ, vì người được nhờ có thể có quyền từ chối – tức có thể không nhận. Theo mạch truyện, việc mà Thúy Kiều sắp nói ra là hệ trọng, là không có cách giải quyết nào khác, cho nên người được “cậy” không có quyền chối từ, mà là ở tình thế “chịu lời”.
GV bình thêm: Đang đắn đo (Hở môi ra, cũng thẹn thùng – Để lòng thì phụ tấm lòng với ai). Kiều đột ngột yêu cầu Thúy Vân ngồi lên cho mình lạy rồi mới nói tiếp. Cử chỉ thật bất ngờ, bất bình thường, ngay cả với Kiều (vì trước đó một giây, nàng chưa hề nghĩ tới), cả với Vân (Dù tâm hồn nàng đơn giản đến đâu!). Bởi việc sắp nói vô cùng quan trọng, thiêng liêng, ảnh hưởng đến cả cuộc đời. Nguyễn Du dùng “cậy” mà không dùng “nhờ”, chọn “chịu” mà không dùng “nhận”, vì giữa các từ đó có sự khác biệt tinh vi. Dùng “nhờ” thay “cậy” không những thanh điệu tiếng thơ nhẹ đi (trắc –bằng), làm giảm phần nào cái quằn quại , đau đớn, khó nói của Kiều, mà ý nghĩ hi vọng tha thiết của một lời gửi gắm, tựa nương, trăng trối cũng mất gần hết. “Nhận” có phần nào tự nguyện, “chịu” thì hình như vì nài ép nhiều quá, nể phải nhận, không nhận không được! Tình thế của Thúy Vân lúc ấy, chỉ có thể “chịu” mà thôi! 
GV hỏi: Sau khi lựa lời đặt em gái vào tình huống tâm sự, Thúy Kiều còn dùng các từ “lạy” và “thưa”, em có nhận xét gì về cách dùng từ này?
- HS suy nghĩ trả lời, GV nhận xét, bổ sung.
GV phân tích: Từ “lạy” thường báo hiệu một việc rất quan trọng – mà ở đây là sắp được trình bày nhưng vai vế có sự đảo ngược khi Thúy Kiều lạy Thúy Vân – chị lạy em? Sự việc thật bất ngờ, phi lí mà hợp lí biết bao! Bởi đây là người chịu ơn, tỏ lòng biết ơn trước sự hi sinh to lớn và cao quý của em mình. Thái độ “lạy” rồi mới “thưa” đầy kính cẩn, trang trọng. Kiều đã coi Vân là ân nhân số một của đời mình.
GV dẫn: Sau khi Kiều đã mở lời nhờ cậy Thúy Vân thì mười câu thơ tiếp theo là điều cần nói và ước nguyện của Kiều ngay sau thái độ khẩn thiết, yêu cầu ở hai câu trên. Thúy Kiều đưa ra ước nguyện của mình: mong Thúy Vân thay mình nối duyên cùng Kim Trọng, giải thích ngay cho thái độ khẩn khoản, nhún mình, kính cẩn với Thúy Vân rất khác thường ở trên. 
GV hỏi: Để Thúy Vân “chịu lời”, Thúy Kiều đã giãi bày những điều gì? 
- GV cho HS HS giải thích các điển cố,điển tích theo chú thích sgk.
GV bình: Nguyễn Du thật tài tình như đọc thấu tất cả nỗi lòng nhân vật. Nỗi đau khổ vì không giữ trọn lời đính ước với chàng Kim:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
đã buộc Thúy Kiều phải nói thật, nói hết với em, phải giãi bày tất cả. Bởi vì không có cách nào khác là phải nhờ em. Bởi chỉ có người thân thiết, ruột thịt mới thấu hết những trăn trở khó nói trong nàng. Đó là gánh nặng tương tư. Thế nhưng “gánh tương tư” đâu có nhẹ nhàng gì, thế mà vì mình giờ đây bỗng đứt đoạn, bỗng dở dang. Gánh nặng vật chất thì có thể san sẻ được, nhờ người khác giúp đỡ được, còn gánh nặng tương tư mà nhờ người khác giúp đỡ thì là điều hiếm thấy xưa nay. Vì vậy, Kiều mới phải cậy nhờ em, mới phải lạy, phải thưa, vì hơn ai hết, nàng thấy hiểu nỗi khó khăn, sự tế nhị của gánh nặng này. Rõ ràng, Thúy Vân cũng phải hi sinh tình yêu của mình để giúp chị. Trong hoàn cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em.
 Đâu chỉ là gánh nặng tương tư, Kiều còn mang trên đối vai gầy bé nhỏ của mình gánh nặng gia đình khi phải lựa chọn giữa hiếu và tình:
“Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn ?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.
 Vốn dĩ “hiếu – tình” là hai phạm trù tinh thần không thể đặt lên bàn cân, vậy mà cái xã hội phong kiến kia lại bắt con người ta lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn, thì đó chẳng phải là cái xã hội bạo tàn sao? Kiều phải cay đắng chọn chữ “hiếu” để rồi phải hi sinh tình yêu một cách đau đớn. Trong lời lẽ có phần khôn ngoan đó người ta cứ thấy lộ ra cái vẻ âu lo. Dường như Kiều phải cố gắng thuyết phục tận tình, tận ý để cho em hiểu.
GV bình tiếp: Đau đớn biết chừng nào khi cả hai chị em đều “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, vậy mà nàng Kiều lại nói “ngày xuân em hãy còn dài”, phải chăng kể từ lúc này nàng Kiều đã ý thức được cái tương lai không mấy tươi đẹp đang chờ nàng phía trước? Cũng vì thế mà khi hi sinh chữ tình, Kiều coi như không tồn tại trên cõi đời này nữa, cái chết là một kết cục u ám và bi thảm mà nàng luôn nghĩ đến.
 GV hỏi: Từ đó em hãy cho biết lí do trao duyên cho em ở đây là gì? Tại sao Thúy Kiều lại trao duyên cho Thúy Vân mà không phải là người khác?
GV hỏi: Qua lời thuyết phục của Thúy Kiều, em hãy nhận xét về “lý trí” của nàng lúc này? Cũng qua đây, em cảm nhận được vẻ đẹp gì trong phẩm chất và nhân cách của nàng Kiều?
GV hỏi: Em hãy hình dung tâm trạng của Thúy Kiều khi giãi bày và tìm cách thuyết phục trao duyên cho Thúy Vân?
- GV cho HS khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của 12 câu thơ đầu.
* Tìm hiểu tâm trạng của Thúy Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò em.
GV hỏi: Sau khi thuyết phục em, Thúy Kiều trao kỉ vật của tình yêu cho Thúy Vân, vậy đó là những kỉ vật gì? Những kỉ vật đó có ý nghĩa như thế nào đối với Kiều?
- HS theo dõi văn bản, suy nghĩ, trả lời.
GV hỏi: Trong lúc trao kỉ vật, Kiều dặn dò Vân những gì? Lời dặn dò đó của Kiều cho em thấy tâm trạng của Kiều như thế nào? Có gì mâu thuẫn trong lời dặn dò đó?
(Trong quá trình giảng giải, phân tích GV hỏi thêm: Em hiểu thế nào là “duyên này” và “của chung”?)
- HS suy nghĩ, trả lời.
GV bình: Khủng hoảng tạm lắng, nuốt nước mắt vào trong, Kiều trao lại cho Vân kỉ vật, những của tin - vật làm tin – giữa Kim và Kiều hồi hai người đính ước. Chiếc thoa này là kỉ niệm khởi đầu giao duyên. Tờ hoa tiên (tờ mây) này ghi lời thề ướcThế nhưng những kỉ vật ấy bây giờ trở thành “của chung”. Hai chữ “của chung” chất chứa bao đau xót. Trước đây nó là của chàng và chị, nay còn là của em. Kỉ vật tình yêu chỉ thiêng liêng khi nó là tín vật, là nhân chứng thầm kín của riêng hai người thôi. Còn bây giờ, từ bây giờ, nó đã thành của chung! Nhưng câu thơ còn giấu trong nhịp điệu của nó một nỗi đau sâu kín của nàng Kiều. Điệp từ “này” như dằn lòng, như dang dở. Lý trí đã quyết định trao duyên, trao kỷ vật, song tình cảm vẫn cố trì hoãn, níu giữ. Vì thế mà cái động thái trao kia cứ dùng dằng. Kỷ vật lìa khỏi tay người như cũng vật vã không yên. Cố dằn lòng mà không thể cầm lòng!
GV hỏi tiếp: “của chung” thì có thể trao cho em, còn “của tin” liệu có thể trao cho em được hay không? (GV gợi mở bằng cách cho HS lí giải thế nào là “của tin”) 
- HS suy nghĩ và lí giải.
GV hỏi: Em hãy hình dung tâm trạng của Thúy Kiều khi trao kỉ vật cho em? 
GV hỏi: Trong đoạn thơ tiếp theo (từ câu 19 đến câu 26), những từ ngữ, hình ảnh nào gây cho em nhiều ấn tượng nhất? Vì sao? ( GV giải thích một số từ ngữ khó trong mục 1 đến mục 6, SGK trang 105)
GV hỏi tiếp: Em cảm nhận được gì trong nhịp điệu thơ ở đây? Giá trị biểu đạt của nhịp điệu đó trong việc thể hiện tâm trạng của Thúy Kiều.
GV phân tích: Tự coi mình là người bất hạnh, Thúy Kiều trăn trở và tiếc nuối mối tình đầu trong trắng với những hẹn thề chưa thể thưc hiện được và nghĩ mình là người chết oan, cho nên ngôn ngữ nói như nửa tỉnh, nửa mê: hiu hiu, hương khói, ngọn cỏ, lá câymà thực sự là tâm trạng đớn đau dằn vặt khôn nguôi. 
GV hỏi: Đoạn thơ có sự thay đổi như thế nào về ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trữ tình?
GV hỏi: Đang sống ở hiện tại, nhưng Kiều lại nghĩ đến cái chết trong tương lai, điều này có ý nghĩa gì?
- GV yêu cầu HS khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của 14 câu thơ tiếp.
GV chuyển ý: Ngôn ngữ nửa mê nửa tỉnh của Thúy Kiều thực chất là biểu hiện của trạng thái tiếc nuối và đớn đau vô hạn. Từ mộng mị của tương lai mờ mịt, Thúy Kiều trở lại với thực tại đau xót. Những dấu hiệu nghệ thuật nào cho thấy điều đó? (GV gợi mở bằng cách cho HS tìm từ ngữ, thành ngữ..)
- GV liên hệ, so sánh với hình ảnh hoa dạt, bèo trôi trong văn học 
GV bình: Từ tương lai, từ cõi chết, cõi âm mịt mờ quay về hiện tại thảm khốc, Kiều vẫn quanh quẩn với nỗi đau mất mát, không thể hàn gắn: tram gãy, bình tan. Thân phận của nàng cũng bạc bẽo, trôi nổi. Tất cả như đẩy nàng rơi sâu thêm vào nỗi đau tuyệt vọng để rồi nàng thảng thốt kêu lên tiếng kêu đau đớn: “Ôi Kim Lang hỡi Kim Lang/ Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
GV hỏi: Em hãy hình dung tư thế và tâm trạng của Kiều trước và sau khi thét lên hai tiếng kêu cuối cùng?
GV bình: Xác định được thực tại oan nghiệt, Thúy Kiều dành tâm sự tâm sự hướng về Kim Trọng và than thân trách phận. Đau xót vì “tơ duyên ngắn ngủi” và “phận bạc” như vôi, Thúy Kiều trút cả bầu tâm sự về phía người yêu, vừa như cầu xin tạ lỗi, vừa như lời vĩnh biệt. Hai câu cuối như thảng thốt không thể kìm nén. Có điều đặc biệt là đến đây dường như có Thúy Vân trước mắt, đó chính là đỉnh điểm của sự đau xót.
- GV yêu cầu HS khái quát lại nội dung và nghệ thuật của 8 câu thơ cuối.
Hoạt động 3: GV hướng dẫn HS tổng kết bài học
GV hỏi: Qua việc tìm hiểu giá trị nghệ thuật và nội dung, em hãy khái quát chủ đề của đoạn trích?
GV hỏi: Sau khi tìm hiểu diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đêm trao duyên, em hãy khái quát lại giá trị của đoạn trích?
GV yêu cầu HS những công việc sau:
- Em hãy hình dung diến biến tâm trạng của Thúy Vân khi nghe chị gái giãi bày tâm sự?
- Em thử đặt một tên khác cho đoạn trích “Trao duyên” và lí giải tại sao có thể đặt như vậy? (GV thành lập nhóm 2 người và tham gia trò chơi)
I. Tiểu dẫn.
1.Xuất xứ đoạn trích.
- Đây là một trong những đoạn thở mở đầu cuộc đời lưu lạc đau khổ của Thúy Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt giam do thằng bán tơ vu oan, Thúy Kiều phải bán mình làm vợ Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót quan lại cứa cha và em. Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều nhờ cậy Thúy Vân thay mình trả nghĩa lấy Kim Trọng. Đây là một đoạn thơ có tính chất như một đoạn ngôn ngữ độc thoại của Thúy Kiều.
2. Tìm hiểu giá trị đoạn trích.
- Đây là lời dặn dò, tâm sự của Thúy Kiều với em gái mình là Thúy Vân, để nhờ em 
một việc thiêng liêng, tế nhị trong một trạng đau đớn và dường như tuyệt vọng.
- Đọc đoạn thơ có thể thấy diễn biến của cuộc trao duyên như sau:
+ 12 câu đầu (723-734): Thúy Kiều giãi bày lí do, tìm cách thuyết phục để trao duyên cho Thúy Vân;
+ 14 câu tiếp (735-748): Thúy Kiều trao kỉ vật và dặn em;
+ 8 câu cuối (749-756): Thúy Kiều hướng về tình yêu và Kim Trọng.
II. Đọc – hiểu đoạn trích.
1. 12 câu thơ đầu: Tâm trạng của Thúy Kiều khi giãi bày lí do, tìm cách thuyết phục để trao duyên cho Thúy Vân.
* 2 câu đầu: Lời nhờ cậy.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Từ tác giả sử dụng
Từ có thể thay thế
Cậy: thanh trắc tạo âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, vật vã trong nội tâm của Thúy Kiều.
à nhờ vả, trông mong tin tưởng, gửi gắm niềm hi vọng thiết tha.
Nhờ: thanh bằng làm giảm phần nào cái quằn quại, đau đớn, khó nói của Kiều.
Chịu: bị bắt buộc, bị nài ép, thua thiệt.
à cầu em hãy lắng nghe mình, chấp nhận, chịu thiệt thòi.
Nhận: có phần nào tự nguyện.
- “Lạy”: trang nghiêm, hệ trọng.
- “Thưa”: kính cẩn, trang trọng với bề trên hoặc với người mình hàm ơn.
à Không khí trao duyên trang trọng, thiêng liêng.
à Sự việc bất ngờ, phi lý mà lại hợp lý, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sắp nhờ, thấy được sự nhạy cảm, tinh tế và khôn khéo của Thúy Kiều.
è Đây là lời nhờ cậy của Thúy Kiều đối với Thúy Vân trước một sự việc vô cùng thiêng liêng và quan trọng sắp được nói ra.
* 10 câu tiếp: Lời giãy bày và thuyết phục.
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loam chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
* Lời giãy bày:
- Cảnh ngộ của Kiều:
+ “đứt gánh tương tư”: mối tình dở dang, đứt quãng.
+ “sóng gió bất kì”: tai họa ập đến gia đình nàng.
+ “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”: Lựa chọn giữa hiếu và tình.
+ “mối tơ thừa”: mối tình duyên Kim-Kiều; “chắp mối”: Thúy Vân là người nhận lại mối tình dang dở đó à cách nói nhún nhường, trân trọng vì Kiều hiểu rõ sự thiệt thòi của em.
+ “mặc em”: phó mặc, ủy thác à vừa có ý mong muốn vừa có ý ép buộc Thúy Vân phải nhận lời.
- Kể vắn tắt về mối tình với Kim Trọng:
+ “khi gặp chàng Kim”, 
+ “khi ngày quạt ước”, 
+ “khi đêm chén thề”.
à mối tình dang dở, hẹn ước của Kiều với với Kim Trọng à điệp từ “khi” nhấn mạnh tình yêu sâu nặng, gắn bó bền chặt của Kim-Kiều. 
* Lời lẽ thuyết phục Thúy Vân:
- “ngày xuân”: Thúy Vân còn trẻ, còn có tương lai.
- “xót tình máu mủ”: Tình chị em, tình ruột thịt thiêng liêng.
- “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”: Nàng tưởng tượng đến cái chết của mình để gợi sự thương cảm ở Thúy Vân.
à Sử dụng thành ngữ, ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học.
à Lí do trao duyên cho em: 
+ mối tình dang dở của Kim – Kiều -> muốn em là người “chắp mối”.
+ giữa tình và hiếu, Kiều đành chọn cách hi sinh tình cho hiếu.
à nhờ cậy Thúy Vân để trao duyên vì tình chị em, máu mủ, ruột rà mới có thể dễ dàng chia sẻ cảm thông. Đây mới là lí lẽ cơ bản và duy nhất.
- Lí trí làm chủ tình cảm.
à Thúy Kiều là người sắc sảo, tinh tế, thông minh bên cạnh đó nàng là một người con hiếu thảo, có đức hy sinh và lòng vị tha và là một người nặng tình, nặng nghĩa.
è Tâm trạng của Kiều khi giãy bày và tìm cách thuyết phục trao duyên cho em: Biết ơn chân thành, yên tâm, thanh thản, nhẹ người đi vì vấn đề nặng như núi cơ hồ đã được giải quyết. Nhưng tiếc thay, đó chỉ là “tạm thời”. Khủng hoảng tâm tư trong lòng Thúy Kiều mới “tạm thời” được giải tỏa, bởi mâu thuẫn bi kịch thực sự trong lòng nàng đến đây lại bùng lên mãnh liệt.
*Tiểu kết:
- Nội dung: 12 câu thơ đầu là lời nhờ cậy, giãi bày, thuyết phục của Thúy Kiều với Thúy Vân trước một sự việc hệ trọng mà nàng sắp thực hiện.
- Nghệ thuật:
+ Ngôn ngữ của Nguyễn Du có sự kết hợp hài hòa giữa cách nói trang trọng, văn hoa và giản dị, nôm na của cách nói dân gian.
+ Sử dụng các điển tích: keo loan, tơ duyên đi đôi với các thành ngữ: tình máu mủ, lời nước non, thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối
à làm cho lời giãi bày và thuyết phục của Thúy Kiều chạm đúng vào niềm thương cảm và lay động được lòng trắc ẩn của Thúy Vân trong đêm trao duyên.
è Qua đó thấy được sự chính xác, tinh tế trong cách sử dụng ngôn từ và xây dựng hình tượng nhân vật của Nguyễn Du.
(Hết tiết 1)
2. 14 câu thơ tiếp (từ câu 13 đến câu 26): Tâm trạng của Thúy Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò em.
* 6 câu thơ đầu (từ câu 13 đến câu 18).
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
- Trao kỉ vật: “Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền” 
à Những kỉ vật thiêng liêng của Kiều với Kim Trọng.
- Lời dặn dò 1: “Duyên này thì giữ” >< “vật này của chung”:
+ “Duyên này”: tình riêng của Kiều với Kim Trọng.
+ “Của chung” à của Kim, Kiều.
 à nay còn là của Vân.
à Tâm trạng Kiều đầy mâu thuẫn:
+ Khẩn khoản van nài Vân thay mình lấy Kim Trọng.
+ Trao kỉ vật lại thấy mình cũng có một phần trong đó.
à Kiều cố níu giữ kỉ vật như một sự an ủi về tinh thần à Tiếc nuối, đau đớn.
ó Kiều chỉ có thể trao duyên (nghĩa) nhưng tình không thể trao. Câu thơ hàm ý sự đau xót của Thúy Kiều khi phải chia tay với kỉ vật của tình yêu.
+ “Của tin”: phím đàn, mảnh hương nguyền à những kỉ vật gắn bó, chứng giám tình yêu của Kim Kiều trong đêm trăng thề nguyền. Do vậy, “của tin” không còn là phạm trù vật chất nữa mà đã trở thành một phạm trù tinh thần, kết nối yêu thương, sự tin tưởng của hai người dành cho nhau.Dù ngay bây giờ thôi, “mất người” – mất đi hạnh phúc lứa đôi- Thúy Kiều vẫn còn “của tin” – tình cảm thiêng liêng – mà nàng giữ lại cho mình.
à Cử chỉ thì trao kỉ vật, nhưng tâm trạng là một cuộc chia ly vĩnh biệt với mối tình đẹp đẽ đầy ắp những kỉ niệm yêu đương: làn hương, tiếng đàn. T

File đính kèm:

  • docxTuan_29_Trao_duyen_20150725_035406.docx