Đề tài Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy đọc hiểu văn bản trong chương trình ngữ văn 12

 Phần mềm CNTT được giáo viên Ngữ văn sử dụng phổ biến nhất hiện nay là phần mềm Powerpoint. Đây là phần mềm đơn giản, dễ thiết kế trình chiếu và có tác dụng tích cực, rõ nét nhất. Khi giới thiệu, trình bày và khái quát nội dung bài học, mỗi slide được coi là một bộ phận cũng là một hệ thống con trong hệ thống các nội dung mà bài học cần thể hiện. Ở mỗi slide, giáo viên có thể chọn hiệu ứng, đưa các tư liệu (phim, ảnh, nhạc, bài đọc tác phẩn ) làm cho bài giảng sinh động lôi cuốn hơn.

doc10 trang | Chia sẻ: dung89st | Lượt xem: 3718 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy đọc hiểu văn bản trong chương trình ngữ văn 12, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc trong văn học giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước.Rất mong được đón nhận các ý kiến góp ý bổ sung với tinh thần xây dựng. 
I. 1. Cấu trúc đề tài gồm 3 phần:
Phần một: Đặt vấn đề,
Phần hai: Giải quyết vấn đề gồm 3 chương:
- Chương 1 Cơ sở lý luận
- Chương 2 Cơ sở thực tiễn,
- Chương 3 Thực hành thết kế giáo án điện tử đọc hiểu ngữ văn 12 
Phần ba: Kết luận và đề xuất vấn đề.
Phần hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Chương 1. Cơ sở lý luận:
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006 QĐ – BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
	 Trong quá trình đổi mới toàn diện nền giáo dục, yêu cầu đổi mới nền giáo dục yêu cầu đổi mới sử dụng trang thiết bị dạy học, phương tiện dạy học hiện đại mà đặc biệt là ứng dụng CNTT, tạo điều kiện cho giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học mới, kích thích tối đa năng lực chủ động sáng tạo và hứng thú học tập của học sinh. Giúp các em thực hiện thuận lợi các hoạt động cá nhân độc lập, việc hoạt động nhóm cũng chủ động, bền vững hơn.
	Việc đổi mới dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông đã làm tăng tính tích cực hóa hoạt động của học sinh dưới sự tổ chức hướng dẫn điều khiển của giáo viên: học sinh phải tự giác chủ động tìm tòi, phát hiện, giải quyết nhiệm vụ, nhận thức và có ý thức vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến thức, kỹ năng đã thu được. Để thực hiện được các phương pháp dạy học mới, người giáo viên Ngữ văn hiện nay không thể không biết gì về CNTT, mặc dù nhìn bề ngoài, văn chương nghệ thuật có vẻ xa lạ với máy móc, các phương tiện trang thiết bị hiện đại. Ngay từ năm 2006, tiến sĩ Đỗ Ngọc Thống đã phải thốt lên: “Đã đến lúc, nếu không muốn nói là quá muộn, cần nghiên cứu và triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở bộ môn Ngữ văn một cách rộng rãi, đúng hướng và có hiệu quả” {1, 182}. Cũng theo thầy Đỗ Ngọc Thống, việc ứng dụng CNTT vào dạy học ở bộ môn Ngữ văn có thể đem lại những hiệu quả rất lớn: 
- “Thứ nhất, công nghệ thông tin góp phần nâng cao tiềm lực của người giáo viên bằng cách cung cấp cho họ những phương tiện làm việc hiện đại” {1, 182}
- “Thứ hai: công nghệ thông tin góp phần đổi mới cách dạy. cách học, đổi mới phương pháp dạy học” {1, 184}
Năm 2008, trong tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình và sách giáo khoa lớp 12 (tài liệu dùng trong các lớp bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình và sách giáo khoa lớp 12 toàn quốc), các tác giả cũng đã có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề “công nghệ thông tin góp phần đổi mới phương pháp dạy học”. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học có xác định:
“Tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, thiết bị dạy học và đặc biệt lưu ý đến ứng dụng của công nghệ thông tin” {2, 8}. Các tác giả đã khẳng định ưu thế của các phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại. Trong đó chỉ rõ yêu cầu của CNTT, đóng vai trò là phương tiện, thiết bị hỗ trợ đắc lực cho việc dạy và học. Đồng thời cũng đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng CNTT ở trường THPT. 
Trong nhà trường, tất cả các môn học đều có tầm quan trọng nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh, nhưng môn Ngữ văn là môn góp phần giáo dục nhân cách khá quan trọng, bởi lẽ “Văn học là nhân học”, nó tác động mạnh trong việc hình thành nhân cách thế giới quan khoa học và giúp phát triển tư duy cho học sinh. Không chỉ ở nước ta mà hầu hết các nước trên thế giới.Nếu bảng phấn chỉ giúp giáo viên truyền đạt cho học sinh nội dung bài giảng thì CNTT sẽ hỗ trợ hiệu quả khi GV cung cấp những tư liệu có liên quan đến bài học một cách trực quan sinh động. Giúp cho học sinh nắm bắt và khắc sâu vấn đề hơn.
VD: Khi dạy về tiểu sử Hồ Chí Minh, Tố Hữu ... thì giáo viên có thể đưa chân dung, hình ảnh tư liệu về các tác giả này.
Ngoài ra, giáo viên có thể dùng tranh ảnh, vật thật liên quan đến những hình ảnh đặc sắc trong tác phẩm.
VD: trầu cau trong tác phẩm "Mời trầu" của Hồ Xuân Hương, hay dạy thơ thì giáo viên chọn đoạn ngâm thơ có minh hoạ hình ảnh trong đó có giọng ngâm của nghệ sĩ. Cũng như thế, khi dạy "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài thì giáo viên chọn một số đoạn tả cảnh Tây Bắc, một số chi tiết về tập quán ở vùng cao của người Mèo trong phim "Vợ chồng A Phủ". Đưa các tác phẩm đã được chuyển thể thành phim vào bài dạy bằng kỹ thuật vi tính. 
Ngược lại nếu dạy theo phương pháp truyền thống khi áp dụng vào chủ đề: chủ nghĩa yêu nước trong văn học kháng chiến chống Mỹ, thì hiệu quả sẽ không cao như bảng so sánh sau:
Kiểu truyền thống
Ứng dụng CNTT
- Giáo viên điều khiển mọi hoạt động học tập.
- Lớp học thụ động, không sôi nổi, hào hứng.
- Các tư liệu liên quan bị giới hạn, HS khó hình dung vấn đề.
- Khó hệ thống hoá nội dung toàn bộ bài học.
- Lấy học sinh làm trung tâm, GV chỉ đóng vai trò hướng dẫn.
- Không khí lớp sinh động, HS hào hứng tham gia học tập.
- Tư liệu trực quan sinh động, phong phú thu hút HS, HS dễ khắc sâu bài học.
- Hệ thống hoá nội dung đầy đủ bằng các sơ đồ, biểu bảng được trình chiếu.
Như vậy, Việc ứng dụng CNTT cũng chưa phải là tối ưu nhất, nhưng nó sẽ góp phần tích cực vào việc chuyển tải đầy đủ nội dung bài học và cung cấp cho học sinh cái nhìn toàn diện về chủ nghĩa yêu nước trong văn học kháng chiến chống Mỹ của dân tộc.
II. Chương 2 : Cơ sở thực tiễn.
Qua điều tra và thăm dò ý kiến của các giáo viên dạy văn trên địa bàn huyện Đức Cơ, và một số trường lân cận. Tôi nhận thấy việc ứng dụng CNTT vào dạy học văn trong nhà trường vẫn còn rất nhiều hạn chế, nếu có sử dụng giáo án điện tử thì chỉ diễn ra ở các tiết thanh tra chuyên môn, hay thi giáo viên giỏi cấp trường. Ở các trường như THPT Lê Hoàn, hay THPT Nguyễn Trường Tộ,... mỗi năm giáo viên chỉ đăng ký 01 hoặc 02 tiết giáo án điện tử trên người/ trên năm, và thông thường là lên thư viện bài giảng tải về chỉnh sửa rồi dạy. Nguyên nhân chính của việc này là do soạn giáo án điện tử tốn rất nhiều thời gian và đòi hỏi cao về kỹ thuật,... Nên phần lớn giáo viên không thực sự hào hứng với công việc này.
2.1. Khó khăn 
 	a. Chủ quan
- Về phía giáo viên : 
 	Với suy nghĩ một chiều về tính hiệu quả không cao trong dạy – học ngữ văn nhiều giáo viên ngại ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học hoặc chỉ sử dụng bất đắc dĩ trong các tiết thao giảng, thực hiện chuyên đề. Hầu hết giáo viên không chú trọng vào vấn đề nên vận dụng phần mềm nào, sử dụng như thế nào và đến mức độ nào trong quá trình đổi mới phương pháp dạy - học. 
 	Không ít giáo viên đã lạm dụng các phần mềm powerpoint trong giờ văn tạo cho học sinh sự phân tán các giác quan giữa nghe, nhìn, quan sát các con chữ, theo dõi các hiệu ứng. Vì vậy, họ không những không chuyển tải trọn vẹn những kiến thức quan trọng mà còn tạo ra sự xơ hóa, khô hóa, vô cảm hóa các tình cảm, cảm xúc tự nhiên, làm hạn chế chất văn, chất thơ trong từng bài dạy. Như vậy tiết dạy đọc hiểu văn bản rất dễ rơi vào tình trạng triết tự ngôn từ mà thôi. 
 	Mặt khác, hiện nay, không phải trường nào cũng có phương tiện đèn chiếu và bản thân giáo viên nào cũng có trình độ sử dụng vi tính tốt và quan trọng hơn việc soạn một giáo án điện tử khá tốn thời gian nên phong trào giảng dạy bằng giáo án điện tử chưa phải là thế mạnh.
 	Chưa phải là niềm đam mê. Bởi bên cạnh công tác giảng dạy GV còn phải vật lộn với cuộc sống mưu sinh vô cùng vất vả hàng ngày. Thì việc tiếp cận với giáo án điện tử còn là vấn đề mới mẻ hoặc chưa thể tiếp xúc được. 
- Về phía học sinh : 
Tình trạng học vẹt, học thụ động, học đối phó với kiểm tra thi cử đang là hiện tượng phổ biến nên việc tìm kiếm thông tin trên mạng là hi hữu. Học sinh rất sợ học văn, ngại học văn mà thường có xu hướng chạy theo các môn học tự nhiên với suy nghĩ sau này dễ tìm việc làm thực dụng hơn. 
Ở lớp, các em có thói quen nghe giảng, ghi bài tất cả chỉ trông chờ vào những kiến thức thầy truyền thụ hoặc ghi trên bảng một cách máy móc, ít hoạt động hoặc nếu có chủ yếu dựa vào sách giải. Đa số học sinh học văn cầm chừng để kiểm tra thi cử, chưa có hứng thú thật sự với văn học.
 	b. Khách quan 
 	Bộ môn Ngữ văn là môn học về ngôn từ, rất ít sử dụng đồ dùng dạy học và phương tiện dạy học nên việc đầu tư đồ dùng dạy học cho môn này là rất ít.
 	Tiếp đến, tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều tiện ích cho việc dạy học nhưng trong một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ trợ hoàn toàn cho việc dạy học. Nó chỉ thực sự hiệu quả đối với một số bài giảng, một số tiết học chứ không thể là toàn bộ chương trình nhất là đối với bộ môn Ngữ văn do nhiều nguyên nhân. Với những bài học có nội dung ngắn, không nhiều kiến thức mới, thì việc dạy theo phương pháp truyền thống sẽ thuận lợi hơn cho học sinh, giáo viên sẽ ghi tất cả nội dung bài học trên một mặt bảng và như vậy sẽ dễ dàng củng cố bài học từ đầu đến cuối mà không cần phải lật lại từng slide như khi dạy giáo án điện tử. Những mạch kiến thức vận dụng đòi hỏi giáo viên phải kết hợp phấn trắng bảng đen và các phương pháp thuyết giảng, bình giảng mới tạo được tâm thế tốt cho học sinh.
 	Bên cạnh đó, kiến thức, kĩ năng về công nghệ thông tin của giáo viên còn hạn chế nên dù có đam mê nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn, lúng túng dẫn đến né tránh. Mặt khác, phương pháp dạy học cũ vẫn còn như một lối mòn khó thay đổi, sự uy quyền, áp đặt vẫn chưa thể xóa bỏ trong ngày một ngày hai. Việc dạy học tương tác giữa người - máy, dạy theo nhóm, dạy phương pháp tư duy sáng tạo cho học sinh, cũng như dạy học sinh cách biết, cách làm, cách chung sống và cách tự khẳng định mình vẫn còn quá mới mẻ đối với giáo viên và đòi hỏi giáo viên phải kết hợp hài hòa các phương pháp dạy học đồng thời phát huy ưu điểm của phương pháp dạy học này, khắc phục những hạn chế của phương pháp dạy học truyền thống. 
Tuy nhiên, việc UDCNTT đôi khi không đúng chỗ, không đúng lúc, nhiều khi lạm dụng nó. Ví dụ như giáo viên không làm chủ được nội dung, phương pháp thì tiết học biến thành giờ "chiếu chép", "nhìn chép".Điều đó làm cho công nghệ thông tin, dù đã được đưa vào quá trình dạy học vẫn chưa thể phát huy tính tích cực và hiệu quả của nó. 
 	2.2. Những thuận lợi 
 	Bên cạnh những khó khăn chủ quan cũng như khách quan như đã trình bày trên, trong quá trình giảng dạy thời gian qua tôi cũng có nhiều thuận lợi trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy - học bộ môn ngữ văn tại đơn vị mình . 
 	Trước hết, ngay từ đầu năm học 2009 - 2010, BGH nhà trường đã triển khai đầy đủ các văn bản có tính pháp quy của Đảng, nhà nước, ngành về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đổi mới phương pháp dạy - học đến giáo viên, triển khai đồng bộ các định hướng ứng dụng công nghệ thông tin, đầu tư máy chiếu, máy tính, kết nối mạng. Nhà trường đã tiến hành tâph huấn bồi dưỡng tin học cho giáo viên mà trọng tâm là sử dụng phần mềm Powerpoint vào soạn giảng.
 	Phong trào nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường được đẩy mạnh, nhiều thầy cô giáo đã mạnh dạn soạn giáo án điện tử trình chiếu trong các tiết thao giảng, báo cáo chuyên đề các cấp. Các tổ chuyên môn coi việc bồi dưỡng kĩ năng vi tính, kĩ năng thiết kế bài giảng điện tử là một nhiệm vụ trọng tâm trong sinh hoạt chuyên môn hằng tháng. 
 	Quan trọng hơn là qua một số tiết dạy trên Powerpoint chúng tôi nhận thấy ở các em có sự chuyển biến rõ nét về mức độ tập trung, hứng thú, các em học sôi nổi hơn, giờ học sinh động hơn, tham gia vào tiết học tích cực hơn trở thành động lực thúc đẩy quá trình tự học, tự sáng tạo của thầy cô giáo ngày càng mạnh mẽ hơn . 
 	Xuất phát từ thực tế như vậy, được sự giúp đỡ, chỉ đạo sâu sát của nhà trường, tổ chuyên môn, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng công nghệ thông tin vào dạy - học bộ môn Ngữ văn từ năm học 2009 - 2010 đến nay và bước đầu đạt được một số kết quả nhất định. 
II. Các bước thực hiện: 
1. Xây dựng thư viên tư liệu. Để phục vụ cho công tác giảng dạy, đối với môn Ngữ văn kho tư liệu là điều kiện cần thiết và đặc biệt quan trọng. Nhưng hiện nay ở môn học này, các đồ dùng trực quan hầu như không có, tranh ảnh minh họa trong sách giáo khoa không nhiều. Chính vì vậy bản thân giáo viên phải chú trọng xây dựng thư viện tư liệu phục vụ tốt cho công tác giảng dạy.
          - Trước đây giáo viên xây dựng kho tư liệu bằng cách đọc, tham khảo tài liệu, sách, báo và chép lại những thông tin cần thiết vào sổ tích lũy chuyên môn.
          - Hiện nay việc ứng dụng CNTT giúp giáo viên xây dựng thư viện tư liệu thuận lợi, phong phú, khoa học hơn và không mất nhiều thời gian như trước đây. Việc khai thác tư liệu có thể lấy từ các nguồn :
          + Khai thác thông tin, tranh, ảnh, tư liệu bài giảng từ mạng Internet 
          + Khai thác tranh ảnh từ sách, tài liệu, báo chí, tạp chí ...
          Trong quá trình tham khảo sách, báo, tài liệu gặp những tranh, ảnh đặc biệt cần thiết, có thể dùng máy Scan quét ảnh và lưu vào USB, cuối cùng cập nhật vào kho tư liệu của mình để phục vụ cho quá trình giảng dạy. 
          + Khai thác từ băng hình, phim video, các phần mềm, tranh ảnh, bản đồ, hình vẽ... thông qua chức năng cung cấp thông tin của máy tính.
Ví dụ: Khai thác các đoạn phim về các tác giả văn học, các tác phẩm văn học được chuyển thể thành phim hoặc bài hát, khúc ngâm cần thực hiện thao tác: Mở các băng hình, các đĩa CD - Rom, lựa chọn các đoạn phim có thể làm tư liệu giảng dạy, sử dụng phần mềm cắt các đoạn phim rồi lưu vào máy tính thành các file dữ liệu trong thư viện tư liệu để phục vụ giảng dạy
     	Từ các nguồn khai thác trên giáo viên sẽ lưu trữ cho mình một thư viện tư liệu phong phú, đa dạng để phục vụ cho công tác giảng dạy. Tuy nhiên cần lưu trữ thành từng file dữ liệu để dễ dàng tìm kiếm khi sử dụng. 
   	2. Xây dựng bài giảng điện tử. 
   	2.1. Các phần mềm thiết kế bài giảng điện tử thường được sử dụng trong dạy học Ngữ văn.
          Phần mềm CNTT được giáo viên Ngữ văn sử dụng phổ biến nhất hiện nay là phần mềm Powerpoint. Đây là phần mềm đơn giản, dễ thiết kế trình chiếu và có tác dụng tích cực, rõ nét nhất. Khi giới thiệu, trình bày và khái quát nội dung bài học, mỗi slide được coi là một bộ phận cũng là một hệ thống con trong hệ thống các nội dung mà bài học cần thể hiện. Ở mỗi slide, giáo viên có thể chọn hiệu ứng, đưa các tư liệu (phim, ảnh, nhạc, bài đọc tác phẩn ) làm cho bài giảng sinh động lôi cuốn hơn.
 	Bên cạnh Powerpoint là phần mềm Violet, phần mềm thiết kế bài giảng điện tử của Công ty Bạch Kim, với giao diện trực quan, dễ dùng, ngôn ngữ giao tiếp hoàn toàn bằng tiếng Việt rất thuận lợi cho giáo viên. Phần mềm này cũng cung cấp một hệ thống các công cụ soạn thảo giúp giáo viên soạn bài giảng nhanh chóng. Trong quá trình soạn giáo án, Violet còn cung cấp sẵn nhiều mẫu bài tập chuẩn thường được sử dụng trong sách giáo khoa, sách bài tập (như bài tập trắc nghiệm, bài tập ô chữ, bài tập kéo thả chữ/ kéo thả hình ảnh ), ngoài ra Violet còn hỗ trợ nhiều module cho từng môn học giúp giáo viên tạo được những trang bài giảng chuyên nghiệp. Sau khi soạn thảo xong, phần mềm cho phép xuất bài giảng ra thành một sản phẩm chạy độc lập có thể copy vào đĩa mềm, USB hoặc CD để chạy trên các máy tính khác mà không cần chương trình Violet.
2.2. Quy trình thiết kế một bài giảng điện tử.
Thiết kế một bài giảng điện tử không thể tuỳ tiện, tuỳ hứng mà cần tuân theo những quy tắc, quy trình nhất định tương tự như quá trình soạn một giáo án truyền thống. Việc soạn giảng có thể tiến hành theo các bước sau:
- Xác định rõ mục tiêu bài dạy.
- Xác định kiến thức cơ bản, nội dung trọng tâm.
- Lựa chọn tư liệu, tranh ảnh, phim  và những thông tin cần thiết phục vụ bài dạy.
- Lựa chọn phầm mềm soạn giảng, lựa chọn cách trình bày, các hiệu ứng phù hợp   xây dựng tiến trình dạy học thông qua các hoạt động.
- Chạy thử, sửa chữa và hoàn thiện bài giảng.
2.3. Cách thiết kế giáo án điện tử trên phần mềm Powerpoint
* Việc thiết kế giáo án điện tử được chuẩn bị như sau:
Bước 1: Công việc thứ nhất:
Giáo viên tiến hành soạn giáo án giảng dạy bình thường để thực thi trên lớp theo đúng mẫu qui định của tổ chuyên môn và quy định của sở giáo dục.
Bước 2: Công việc thứ hai:
Tiến hành soạn giáo án điện tử để giảng dạy trên lớp bằng máy Projector.
Bước 2.1: Xác định nội dung bài dạy, phần kiến thức cần ghi bảng để học sinh theo dõi bài, từ đó tính toán các slide (trang) tương ứng.
* Có thể hình dung như sau:
- Với một bài Đọc- Hiểu:
- Slide 1: Số thứ tự tiết theo PPCT, tên tác phẩm (Tên bài dạy), tên tác giả.
- Slide 2: I – Tiểu dẫn:
1-Tác giả: 
Ở Slide 2, giáo viên có thể chèn hình chân dung tác giả hoặc các hình ảnh, tư liệu có liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của tác giả nhằm cung cấp tư liệu trực quan kích thích việc học tập của HS.
- Slide 3: 2 – Tác phẩm:
Có thể chèn các hình ảnh minh họa về tác phẩm từ tranh tư liệu hoặc băng hình, phim tư liệu liên quan đến tác phẩm nhằm giúp HS có ấn tượng rõ hơn về tác phẩm. Phần đọc tác phẩm, có thể vận dụng băng tư liệu, băng ngâm thơ, băng hình minh họa
- Slide 4 đến các Slide tiếp theo: Là các nội dung tương ứng với từng phần trong nội dung bài dạy và tương ứng với từng phần trong thiết kế giảng dạy của giáo án. Trong các Slide này, giáo viên có thể chèn các câu hỏi, bài tập nhóm để học sinh dễ quan sát và nắm các yêu cầu thực hành nhóm để cùng làm việc mà hình thành bài học.
- Slide n-1: Phần củng cố bài: Giáo viên có thể vận dụng việc củng cố bài bằng hình thức câu hỏi trắc nghiệm khách quan một cách thuận lợi trong Slide này. Hoặc có thể củng cố bài bằng sơ đồ, trò chơi ô chữ mà không cần bảng phụ. Có thể củng cố bài bằng bài hát, băng hình minh họa (nếu có).
- Slide n: Phần dặn dò: Giáo viên dặn dò học sinh bằng Slide này. 
- Với một bài đọc hiểu văn bản
+ Slide tên bài:
+ Các Slide nội dung bao gồm: phần tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm.
+ Các Slide nội dung chi tiết văn bản.
- > Tư liệu hỗ trợ cho bài học: các đoạn văn, hình ảnh, âm thanh, các clip minh họa, bảng biểu, sơ đồ để minh họa cho bài học
- > Hệ thống bài luyện tập
+ Slide củng cố bài.
+ Slide dặn dò.
Bước 2.2: Tiến hành soạn nội dung bài vào các Slide và chọn cách trình chiếu thích hợp.
2.4. Yêu cầu chung cho việc chuẩn bị giáo án điện tử bằng các Slide:
* Yêu cầu chung:
+ Vận dụng công nghệ thông tin phải đúng lúc, đúng chỗ, bảo đảm đặc trưng bộ môn nhằm tạo hiệu quả cao cho giờ học.
+ Giáo án điện tử không thể thay thế giáo án truyền thống mà đó chỉ là phương tiện hỗ trợ cho giáo viên trong việc thực hiện các phương pháp dạy học theo hướng đổi mới phương pháp, các khâu của quá trình dạy học.
Giáo án điện tử giúp giáo viên tiết kiệm thời gian ghi bảng, góp phần thể hiện đồ dùng dạy học, thay thế hệ thống bảng phụ cồng kềnh cho giáo viên trình chiếu các tư liệu dạy học mà giáo viên dùng để minh hoạ cho bài học.
+ Không quá lạm dụng công nghệ thông tin vào giờ dạy mà làm mất chất Văn thật sự của một giờ Ngữ văn.
* Yêu cầu với việc thiết kế các Slide:
- Nền Slide thường sử dụng màu sáng nhạt, không nên sử dụng màu quá tương phản với các đối tượng trình bày. Nên sử dụng nền trắng, màu chữ đen hoặc xanh đậm, các đề mục lớn có thể sử dụng màu chữ đỏ tác động vào mắt học sinh. Nếu sử dụng nền xanh thẫm thì phải dùng chữ màu trắng thì chữ mới rõ khi chiếu các Slide này qua máy Projector.
- Font chữ và màu chữ: Nên dùng một loại font chữ phổ biến, chân phương, đồng thời sử dụng cách viết đậm, nghiêng, hoa, chữ thường một cách hợp lí. Cỡ chữ thường từ 32 trở nên, phối hợp nhiều nhất là ba màu chữ để làm rõ các nội dung trọng tâm khác nhau. Sử dụng các bacgroud (khung, nền) thống nhất trong toàn bộ các Slide. 
Khai thác và sử dụng tiện ích Powerpoint là hết sức thuận lợi trong giảng dạy Ngữ văn nhưng phải phù hợp với nội dung bài dạy và không nên quá lạm dụng. Do đó, tránh tạo các kí hiệu với các hoạt hình quá sinh động, hoặc chèn các âm thanh quá lạ chỉ có mỗi mục đích thu hút sự tò mò của học sinh, chỉ nhằm gây cười
2.5. 

File đính kèm:

  • docBai_16_Thuc_hanh_7_Dinh_dang_van_ban_20150727_114132.doc