Chuyên đề Để học tốt tiết học lý thuyết ở bộ môn Vật lí 7

Việc chuyển đổi nội dung kiến thức bài học thành một hệ thống các câu hỏi sẽ khơi dậy sự tò mò tìm hiểu về bài học, từ đó học sinh chủ động khám phá kiến thức dưới sự hướng dẫn của thầy giáo, giờ dạy trở nên hào hứng, sinh động, học sinh thực sự trở thành chủ động nắm kiến thức của bài, chất lượng, hiệu quả giờ dạy tăng lên rất nhiều. Hệ thống câu hỏi trong dạy học có ý nghĩa cực kì quan trọng trong việc làm cho bài giảng thực sự tạo được tình huống có vấn đề từ đó phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập; Để xây dựng được một hệ thống câu hỏi đạt yêu cầu đòi hỏi người thầy phải dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu, tìm tòi, rút kinh nghiệm qua soạn bài, qua sự thể hiện ở các giờ lên lớp, qua nhiều năm công tác. Mỗi tiết dạy đưa ra nhiều hay ít câu hỏi, còn tùy thuộc vào từng bài và đối tượng học sinh; Điều quan trọng nhất là đưa ra được các câu hỏi cần thiết vừa đủ, có chất lượng, có tác dụng thiết thực tạo được các tình huống có vấn đề, kích thích tư duy của học sinh khám phá kiến thức. Có bài hầu như chỉ phù hợp với phương pháp thuyết trình, tuy nhiên nếu chịu khó tìm tòi, cân nhắc chúng ta vẫn có cơ hội đưa ra được một số câu hỏi tạo tình huống có vấn đề làm tăng hiệu quả giờ dạy.

doc10 trang | Chia sẻ: tuongvi | Lượt xem: 4890 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Để học tốt tiết học lý thuyết ở bộ môn Vật lí 7, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tên chuyên đề: “Để học tốt tiết học lý thuyết ở bộ môn Vật lí 7”.
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA CHUYÊN ĐỀ:
Chúng ta đang tiến hành đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực bằng cách tổ chức cho học sinh được học tập trong các hoạt động của bài học. Cách tốt nhất để hình thành và phát triển năng lực nhận thức, năng lực sáng tạo của học sinh là đặt các em vào chủ thể hoạt động tự lực, tự giác tích cực của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, phát triển năng lực sáng tạo. Chương trình Vật lý 7 hiện nay thực hiện theo hướng giảm tải dựa vào chuẩn kiến thức kĩ năng, lồng ghép giáo dục môi trường vào môn học nên lượng kiến thức rất phong phú, đa dạng. Việc đổi mới phương pháp dạy học trong chương trình Vật lí 7 là rất cần thiết. 
Qua giảng dạy chúng tôi nhận thấy mặc dù các em đã được học môn Vật lí từ lớp 6, nhưng ở giai đoạn này chỉ cung cấp cho các em những kiến thức Vật lí dưới dạng định tính. Bộ môn Vật lí 7 chia làm 3 chương. Chương quang học, chương âm học và chương điện học. Khối lượng kiến thức của mỗi chương rất nhiều nên việc học của các em còn gặp nhiều khó khăn. 
Xuất phát từ những vấn đề trên và dựa vào thực trạng dạy học vật lí ở trường nên tổ chúng tôi đã xây dựng chuyên đề: “Để học tốt tiết học lý thuyết ở bộ môn Vật lí 7”.
II. MỤC ĐÍCH CỦA CHUYÊN ĐỀ:
- Giúp học sinh tích cực trong các hoạt động.
- Học sinh đạt được mục tiêu mà giáo viên đề ra.
- Học sinh có hứng thú trong giờ học và nắm được bài một cách tốt nhất.
III. NỘI DUNG THỰC HIỆN:
1. Cơ sở lí thuyết:
Đối với môn Vật lý ở trường phổ thông, tiết học lí thuyết đóng một vai trò hết sức quan trọng, việc hướng dẫn học sinh học lí thuyết là một hoạt động dạy học, là một công việc khó khăn, ở đó bộc lộ rõ nhất trình độ của người giáo viên Vật lý trong việc hướng dẫn hoạt động trí tuệ của học sinh, vì thế đòi hỏi người giáo viên và cả học sinh phải học tập và lao động không ngừng. Tiết học lí thuyết sẽ giúp học sinh hiểu sâu hơn những qui luật vật lý, những hiện tượng vật lý, biết vận dụng những quy luật ấy vào thực tiễn. Thông qua các tiết học lí thuyết học sinh vận dụng linh hoạt những kiến thức để tự lực giải quyết thành công những tình huống cụ thể khác nhau thì những kiến thức đó mới trở nên sâu sắc hoàn thiện và trở thành vốn riêng của học sinh. Trong quá trình giải quyết các vấn đề, tình huống cụ thể do phần lí thuyết đề ra học sinh phải vận dụng các thao tác tư duy như so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa...để giải quyết vấn đề, từ đó sẽ giúp phát triển tư duy và sáng tạo, óc tưởng tượng, tính độc lập trong suy nghĩ, suy luận.... Nên các tiết học lí thuyết sẽ gây hứng thú học tập cho học sinh.
2. Cơ sở thực tiển:
2.1. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học:
Trong những năm gần đây, do yêu cầu của đổi mới sự nghiệp giáo dục, CSVC của nhà trường được trang bị khá đầy đủ nhằm phục vụ tối đa cho mục đích đổi mới phương pháp dạy học trong chương trình THCS.
2.2. Đội ngũ giáo viên:
Nhóm Vật lý – Công nghệ  của trường tôi có 2 giáo viên và hầu hết đã đạt trình độ trên chuẩn. Trong các buổi họp chuyên môn chúng tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp dạy học phải bắt đầu từ việc bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ và chuyên môn, tự tìm tư liệu nghiên cứu, tham gia tích cực các buổi học tập chuyên môn của ngành … đó cũng là cách giúp nhau tiếp cận nhanh và thích nghi với việc đổi mới phương pháp dạy học.
2.3. Tình hình thực tế học sinh:
Một số học sinh rất lười học, chưa có hứng thú trong học tập nên việc tiếp thu kiến thức còn hạn chế.
3. Các biện pháp:
Đối với một giờ học lí thuyết thì những hoạt động mà giáo viên thường tiến hành gồm:
- Dẫn dắt vào vấn đề (nêu vấn đề)
- Đặt câu hỏi gợi mở, điều khiển sự trả lời của học sinh.
- Thuyết trình phân tích
- Làm thí nghiệm
- Khai thác các phương tiện dạy học
- Chia nhóm, tổ chức thảo luận
- Tạo sự hứng thú cho lớp học.
Bảy hoạt động này cần được kết hợp với nhau một cách chặt chẽ và khéo léo sao cho đạt được các mục đích trên.
3.1. Dẫn dắt nêu vấn đề
 	Dẫn dắt nêu vấn đề: là hoạt động thường tiến hành ở đầu bài học hoặc ở đầu mỗi phần trong bài. Hoạt động này có tác dụng tập trung sự chú ‎ ý của học sinh vào nội dung mà giáo viên sắp trình bày; Để hoạt động này tiến hành có hiệu quả thì cần phải làm cho học sinh cảm thấy tò mò về vấn đề mà giáo viên sắp trình bày; Muốn vậy vấn đề mà giáo viên dẫn dắt phải mới, lạ và hứng thú đối với học sinh. Dưới đây là một số cách dẫn dắt vào vấn đề mà chúng ta có thể tiến hành:
- Nêu một tình huống thực tế có liên quan đến bài học. Khẳng định học sinh sẽ giải thích được hiện tượng nếu như học xong bài học.
- Đặt một câu hỏi thực tế liên quan đến bài mà học sinh chưa trả lời được (tình huống mới lạ)
- Làm một thí nghiệm mà kết quả có một điểm mới, lạ đối với học sinh.
- Kể một câu chuyện có liên quan đến bài học....
3.2. Đặt câu hỏi gợi mở, điều khiển sự trả lời của học sinh
     Việc chuyển đổi nội dung kiến thức bài học thành một hệ thống các câu hỏi sẽ khơi dậy sự tò mò tìm hiểu về bài học, từ đó học sinh chủ động khám phá kiến thức dưới sự hướng dẫn của thầy giáo, giờ dạy trở nên hào hứng, sinh động, học sinh thực sự trở thành chủ động nắm kiến thức của bài, chất lượng, hiệu quả giờ dạy tăng lên rất nhiều. Hệ thống câu hỏi trong dạy học có ý nghĩa cực kì quan trọng trong việc làm cho bài giảng thực sự tạo được tình huống có vấn đề từ đó phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập; Để xây dựng được một hệ thống câu hỏi đạt yêu cầu đòi hỏi người thầy phải dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu, tìm tòi, rút kinh nghiệm qua soạn bài, qua sự thể hiện ở các giờ lên lớp, qua nhiều năm công tác. Mỗi tiết dạy đưa ra nhiều hay ít câu hỏi, còn tùy thuộc vào từng bài và đối tượng học sinh; Điều quan trọng nhất là đưa ra được các câu hỏi cần thiết vừa đủ, có chất lượng, có tác dụng thiết thực tạo được các tình huống có vấn đề, kích thích tư duy của học sinh khám phá kiến thức. Có bài hầu như chỉ phù hợp với phương pháp thuyết trình, tuy nhiên nếu chịu khó tìm tòi, cân nhắc chúng ta vẫn có cơ hội đưa ra được một số câu hỏi tạo tình huống có vấn đề làm tăng hiệu quả giờ dạy.
          	a. Yêu cầu đối với câu hỏi
- Câu hỏi có tác dụng đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ, động não mới làm sáng tỏ được những điều mà giáo viên đặt ra.
- Câu hỏi dựa trên những kinh nghiệm hoặc kiến thức bài cũ mà học sinh đã học, đã biết.
- Câu hỏi có tính định hướng đến nội dung kiến thức mà giáo viên muốn học sinh chiếm lĩnh, tránh những câu hỏi vu vơ không liên quan.
- Câu hỏi cần có hệ thống gợi ý, dẫn dắt để học sinh trả lời các ý, từ đó hoàn chỉnh vấn đề cần trả lời.
         b. Kĩ thuật đặt câu hỏi
Bên cạnh hệ thống câu hỏi đã chuẩn bị thì cách hỏi và điều khiển sự trả lời của học sinh cũng rất quan trọng; Để việc khai thác hệ thống câu hỏi đạt kết quả cao chúng ta lưu ý một số điểm sau:
- Câu hỏi nêu ra phải chỉ rõ đối tượng trả lời, tránh tình trạng hỏi chung chung rồi sau đó giáo viên tự trả lời
- Khi đặt câu hỏi phải cho học sinh thời gian suy nghĩ, tránh việc nêu câu hỏi ra rồi bắt học sinh trả lời luôn. (có thể nói từ từ, nhấn mạnh, lặp đi lặp lại một vài lần)
- Với một câu hỏi có thể gọi một vài học sinh trả lời, nhận xét trả lời để kiểm tra sự nhận thức của các em.
- Khi học sinh trả lời câu hỏi xong thì dù trả lời đúng hay sai cũng nên động viên học sinh. Điều này làm học sinh tăng sự tự tin trong việc suy nghĩ và trả lời câu hỏi của giáo viên.
- Nếu học sinh không trả lời được thì có thể sử dụng gợi ‎ý cho câu hỏi hoặc gọi học sinh khác, tránh việc dừng quá lâu trước một học sinh sẽ làm ảnh hưởng đến tiến độ bài giảng.
- Đối với việc sử dụng khai thác các câu hỏi gợi ‎ý của sách giáo khoa, tránh việc dùng cụm từ “các em hãy đọc C1 và trả lời C1” Giáo viên cần nêu hẳn câu hỏi lên và cho học sinh suy nghĩ trả lời.
- Nên có hệ thống câu hỏi chọn lọc phù hợp với đối tượng học sinh; Đối với học sinh trung bình, yếu nên cho trả lời những câu hỏi đơn giản, dễ dàng; Còn đối với học sinh khá giỏi nên cho trả lời những câu hỏi cần suy luận nhiều hơn.
- Nếu là câu hỏi có dạng đúng, sai thì phải yêu cầu Hs giải thích câu trả lời của mình (bản thân Hs)
- Không nên đưa ra quá nhiều câu hỏi trong một bài học: điều này sẽ làm cho bài giảng nát vụn ra, mất tính hệ thống, giờ giảng bị căng, học sinh mệt mỏi, tốn nhiều thời gian, các kiến thức cốt lõi ít được giảng giải phân tích.
Hệ thống câu hỏi là yếu tố rất quan trọng đối với bài giảng, Giáo viên cần đầu tư thời gian, công sức biên soạn hệ thống câu hỏi thể hiện rõ trong giáo án đồng thời nắm vững những kĩ thuật hỏi để việc khai thác câu hỏi đạt kết quả cao nhất.
3.3 Thuyết trình, phân tích, diễn giảng                         
Đây là hoạt động không thể thiếu và chiếm thời gian đáng kể trong giờ học, hoạt động này thường kết hợp với hoạt động đặt câu hỏi; Chúng ta cần lưu ý khi thực hiện hoạt động này như sau:
 a. Khi nào cần phân tích, thuyết trình, diễn giảng?
  - Những khái niệm mới
  - Những vấn đề khó
  - Những hiện tượng vật lí mới
  - Những định luật vật lí
b. Để việc phân tích, thuyết trình, diễn giảng đạt hiệu quả cần lưu ý:
 - Lời nói, trình bày của người thầy phải sinh động: việc tạo cho giờ dạy có tính sinh động có ý nghĩa cực kì quan trọng, chúng ta đã từng chứng kiến cùng một bài dạy được trình bày với cung cách và ngôn ngữ giống nhau song do sự khác nhau trong trạng thái tâm lí mà có lớp giờ giảng rất sinh động, học sinh tiếp thu hào hứng, đưa lại hiệu quả cao, người ta thường gọi đó là bài giảng có hồn. Có lớp giờ giảng diễn ra một cách nhạt nhẽo, buồn tẻ, nặng nề, mặc dù hoàn thành nhưng hiệu quả rất thấp, những dấu ấn của bài giảng để lại trong trí não học sinh rất mờ nhạt, đó là những bài giảng không có hồn. Sự sinh động trong tiết học liên quan đến rất nhiều yếu tố: chuẩn bị bài kĩ lưỡng, nắm chắc, hiểu sâu, biết rộng những điều trình bày, lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm đối với học sinh. Giáo viên phải luôn có tâm thế hào hứng đón chờ giờ dạy, thả hồn vào giờ dạy, có lòng bao dung, xử lí một cách mềm dẻo, có chừng mực đối với các tình huống không bình thường mà học sinh có thể bộc lộ trong giờ dạy. Sự hào hứng trong lời giảng của thầy sẽ khơi dậy, lôi cuốn sự hào hứng tiếp thu và xây dựng bài của học sinh. Để tạo sự sinh động trong giảng bài thì cần sử dụng ngôn ngữ gần gũi với học sinh, không nhất thiết chỉ toàn sử dụng những thuật ngữ khoa học khô khan, nên sử dụng những hình ảnh gần gũi dễ nhận biết, so sánh sự tương đương giữa hiện tượng vật lí với hiện tượng trong cuộc sống, giọng điệu phải thay đổi tránh giữ chất giọng đều đều suốt cả giờ học.
- Tích cực khai thác, sử dụng kênh hình trong việc phân tích, thuyết trình: Kênh hình ở đây có thể là hình vẽ trong SGK, hình vẽ chuẩn bị sẵn, các hình ảnh, video mà giáo viên đã chuẩn bị hoặc hình vẽ do giáo viên vẽ lên bảng trong giờ học.  việc đưa ra hình vẽ, hình ảnh rồi phân tích hiện tượng, quá trình ngay trên hình vẽ, hình ảnh có tác dụng giúp học sinh dễ hình dung, tưởng tượng ra hiện tượng, quá trình từ đó nắm bài tốt hơn so với việc giáo viên chỉ nói mà không có bất cứ hình vẽ, hình ảnh nào.
- Sử dụng mô hình tương đồng giữa khái niệm, hiện tượng trong vật lí với khái niệm hiện tượng trong cuộc sống quen thuộc đối với học sinh. Ví dụ so sánh sự tương đồng của dòng điện với dòng nước…
- Kết hợp chặt chẽ việc thuyết trình, diễn giảng với việc đặt câu hỏi và điều khiển sự trả lời của học sinh: không nên thuyết trình quá dài mà nên có câu hỏi xen giữa các nội dung thuyết trình. Điều này giúp cho học sinh vừa phải lắng nghe, quan sát vừa phải suy nghĩ để trả lời câu hỏi của giáo viên
3.4. Làm thí nghiệm
Trong dạy học vật lí làm thí nghiệm là một hoạt động khá đặc trưng của bộ môn; Đối với các giờ lí thuyết thì thí nghiệm bao gồm hai loại là thí nghiệm biểu diễn của thầy và thí nghiệm đồng loại của trò. 
a. Thí nghiệm biểu diễn của thầy: ở loại thí nghiệm này giáo viên sẽ tiến hành thí nghiệm biểu diễn để khảo sát hoặc minh họa một hiện tượng, quá trình, định luật vật lí nào đó. Để tiến hành một cách hiệu quả chúng ta lưu ý những điểm sau:
- Trước khi làm thí nghiệm:  
 + Giới thiệu mục đích thí nghiệm: đây là điều đầu tiên giáo viên cần làm trước khi tiến hành thí nghiệm; Học sinh phải biết là thí nghiệm này để làm gì để từ đó tập trung vào những chỗ cốt lõi, chủ yếu trong kết quả thí nghiệm.
 + Giới thiệu dụng cụ thí nghiệm: nêu những bộ phận và tác dụng của từng bộ phận trong thí nghiệm; Không cần quá đi sâu vào chi tiết kĩ thuật chỉ cần giới thiệu tên gọi, sơ lược cơ chế hoạt động và tác dụng của bộ phận.
 + Hướng dẫn học sinh tập trung quan sát vào kết quả cốt lõi của thí nghiệm, tránh tập trung vào những kết quả không chủ yếu (xa mục đích)
 - Khi làm thí nghiệm:
 + kết hợp vừa thuyết trình, phân tích vừa tiến hành thí nghiệm.
 + kết hợp vừa làm thí nghiệm vừa đặt câu hỏi cho học sinh ví dụ như đang làm thí nghiệm thì dừng lại, yêu cầu học sinh dự đoán điều sắp xảy ra,  yêu cầu học sinh suy nghĩ để lí giải kết quả thí nghiệm…
+ Hướng dẫn học sinh phân tích, xử lí số liệu thu được từ thí nghiệm.
+ Chốt lại kết luận sau khi làm xong thí nghiệm và xử lí xong dữ liệu.
Về mặt kĩ thuật cần lưu ý: Thí nghiệm phải bố trí cho cả lớp đều quan sát được. Nếu dụng cụ quá nhỏ không thể quan sát cả lớp có thể gọi đại diện học sinh lên quan sát trả lời kết quả.
b. Thí nghiệm đồng loạt của trò: Hoạt động này thường tiến hành khi nội dung của thí nghiệm là đơn giản và có đủ dụng cụ cho các nhóm trong lớp tiến hành đồng loạt. Khi tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm đồng loạt tại lớp cần lưu ý những điểm sau:
- Trước khi làm thí nghiệm: giáo viên cần chia nhóm, giới thiệu mục đích thí nghiệm, dụng cụ thí nghiệm, hướng dẫn học sinh quan sát kết quả cốt lõi của thí nghiệm, nêu khoảng thời gian cho thí nghiệm.
- Trong khi làm thí nghiệm: theo dõi hoạt động của các nhóm, hướng dẫn những nhóm chưa làm được thí nghiệm, đặt câu hỏi cho các nhóm trong quá trình làm thí nghiệm.
- Kết thúc thí nghiệm: hướng dẫn học sinh xử lí số liệu, rút ra kết luận, giáo viên chốt lại.
3.5. Khai thác các phương tiện dạy học
      Đây là hoạt động tiến hành song song đồng thời với các hoạt động trên; Các phương tiện dạy học cơ bản gồm Bảng, SGK của học sinh, bảng phụ, máy tính, máy chiếu, dụng cụ thí nghiệm… 
a. Sử dụng khai thác Bảng
- Những nội dung trình bày trên bảng là những nội dung cô đọng thể hiện chuẩn kiến thức kĩ năng của bài; Thông thường ở trên bảng sẽ là các tiêu đề, các công thức, kết luận quan trọng. Nội dung vừa đủ, không quá dài hoặc không quá ngắn. Có một phần trên bảng để tự do thể hiện y tưởng của giáo viên hoặc học sinh (viết, vẽ xong rồi xóa) bên cạnh phần cố định trình bày kiến thức theo nội dung.
b. Sử dụng, khai thác sách giáo khoa: Một trong những đổi mới trong phương pháp dạy học hiện nay đó là rèn luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Sách giáo khoa trở thành một phương tiện dùng cho dạy học.
Để khai thác sách giáo khoa một các có hiệu quả giáo viên cần:
  - Tạo ra cho học sinh nhu cầu muốn tìm hiểu, muốn đọc sách giáo khoa: Có thể thông qua một hiện tượng thực tế, một câu hỏi định tính nào đó tạo sự tò mò mà câu trả lời sẽ có sau khi đọc xong nội dung cần tìm hiểu trong sách giáo khoa. Điều này sẽ có tác dụng kích thích học sinh ham muốn đọc sách để trả lời vấn đề mà giáo viên nêu ra
- Câu lệnh hướng dẫn học sinh đọc, khai thác sử dụng sách giáo khoa phải rõ ràng, chính xác.
c. Sử dụng máy tính, máy chiếu, hình vẽ, bảng phụ: tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Kết hợp sử dụng các dụng cụ trên với thuyết trình phân tích và đặt hệ thống câu hỏi hợp lí
- Sử dụng vừa đủ, không tràn lan, không làm dụng, không biến việc sử dụng phương tiện thành mục đích của bài dạy.
3.6. Tổ chức hoạt động nhóm
a. Tổ chức hoạt động nhóm với những hoạt động như thế nào?
Thường chúng ta tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh đối với các trường hợp sau:
- Sử dụng thí nghiệm đồng loạt để kiểm chứng, minh họa, khảo sát quy luật, hiện tượng.
- Vấn đề nêu ra để luận không quá trừu tượng phức tạp để học sinh có thể thảo luận để đi đến kết luận nhưng cũng không quá dễ dàng đối với học sinh.
 b. Cách thức tổ chức hoạt động:
- Chia nhóm: Giáo viên là người tiến hành chia nhóm. Số lượng nhóm và thành viên trong các nhóm tùy vào tình hình cụ thể của lớp học, cử nhóm trưởng, thư kí.
- Giao nhiệm vụ cho các nhóm: nhiệm vụ giao cho các nhóm phải chi tiết, cụ thể rõ ràng, giáo viên có thể hướng dẫn phân tích cách làm.
- Dự kiến thời gian hoạt động của các nhóm, quan sát, bao quát hoạt động của các nhóm.
- Nghiệm thu sản phẩm của các nhóm, yêu cầu các nhóm nhận xét kết quả.
- Kết luận và chốt lại kiến thức.
3.7. Tạo sự hứng thú trong giờ học
- Tạo điều kiện cho học sinh được làm thí nghiệm hoặc quan sát thí nghiệm: trong quá trình học sinh tự làm hoặc quan sát, dự đoán, phân tích, lí giải thí nghiệm học sinh sẽ tự xây dựng và chiếm lĩnh kiến thức cho mình đồng thời tăng thêm sự hứng thú đối với môn học.
- Sử dụng các quá trình mô phỏng bằng hình ảnh, video, phần mềm, trình chiếu. Nếu giáo viên khai thác tốt (kết hợp với kĩ thuật thuyết trình và đặt vấn đề) và sử dụng hợp lí (vừa mức, không sa đà) thì hiệu quả giờ học sẽ rất cao đồng thời học sinh sẽ rất hứng thú.
- Trong quá trình giảng dạy sử dụng ngôn từ tự nhiên, sinh động, không khô khan, cứng nhắc, không quá nhiều thuật ngữ phức tạp, khó hiểu (có thể thay thế bằng từ hoặc cụm từ khác dễ hiểu hơn miễn là chính xác).
- Khen ngợi học sinh đúng lúc và đúng chỗ (sau khi học sinh trả lời câu hỏi, có thể cho điểm thưởng). Tuyệt đối không mạt sát xúc phạm học sinh.
- Liên hệ thực tế những nội dung liên quan đến bài học, kết hợp giáo dục môi trường vào trong bài học sao cho phù hợp với từng nội dung của từng bài.
- Tổ chức nhiều hoạt động học tập mới lạ dưới dạng trò chơi ô chữ.
- Hài hước và tế nhị trong nhắc nhở học sinh.
- Khuyến khích học sinh nêu câu hỏi để hỏi lẫn nhau hoặc hỏi ngược lại giáo viên (có thể thưởng điểm nếu câu hỏi hay). Các hoạt động gây hứng thú cho học sinh có thể tiến hành vào đầu buổi hoặc song song cùng các hoạt động khác trong suốt cả buổi học; Vấn đề quan trọng nhất là tạo được sự hứng thú cao đối với học sinh.
IV/ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Chúng tôi đang vận dụng chuyên đề vào giảng dạy hiệu quả bước đầu học sinh đạt được như sau:
- Hầu hết các em nắm được mục tiêu bài học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng.
- Tinh thần học tập của các nhóm được phát huy tối đa.
- Kích thích sự hứng thú học tập của học sinh.
Với các hoạt động chủ yếu được tiến hành trong các giờ dạy lí thuyết môn vật lí; Không phải bài nào cũng tiến hành đầy đủ các hoạt động này mà tùy từng bài cụ thể chúng ta lựa chọn cách thức trình bày và các hoạt động cho phù hợp; Những hoạt động trên cần được kết hợp với nhau một cách khéo léo và hợp lí thì hiệu quả giờ dạy đạt tốt nhất.
Nhóm vật lí
PHÒNG GIÁO DỤC& ĐÀO TẠO DUY XUYÊN
TRƯỜNG THCS NGÔ QUYỀN
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
Tên chuyên đề: ĐỂ HỌC TỐT TIẾT HỌC LÝ THUYẾT Ở 
BỘ MÔN VẬT LÍ 7
Nhóm Vật lí: VÕ VĂN THANH, NGUYỄN THỊ LY NA
Năm học: 2014-2015

File đính kèm:

  • docChuyen de mon Vat Ly.doc
Giáo án liên quan