Câu hỏi ôn kiểm tra môn Triết học

Câu 2: Phân tích nội dung 2 nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật

1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:

 a.Khái niệm:

 - Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định, tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt, bộ phận, yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.

- Mối liên hệ phổ biến : có 2 nghĩa:

 + Là tính phổ biến của mối liên hệ

 + Là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật hiện tượng

 b.Tính chất: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng là các tính chất cơ bản của các mối liên hệ

 - Tính khách quan: Sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhautrong tổ chức, kết cấu của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình. Do tính chất của sự qui định đó mà ta phân biệt được trạng thái khác nhau của VC: tồn tại khách quan là tồn tại VC, khác với chủ quan thể hiện ở ý thức, tinh thần.

 - Tính phổ biến: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác; đồng thời cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau. Vậy tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại và đặt trong mối liện hệ.

 

docx21 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 527 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Câu hỏi ôn kiểm tra môn Triết học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ thể kinh tế trong sản xuất đưa nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trong quá trình tiến hoá cách mạng, một mặt phải chống khuynh hướng bảo thủ, trị trệ, nhằm tạo ra những bước nhảy để đẩy nhanh sự phát triển, mặt khác, lại phải chống tư tưởng nóng vội, muốn đưa nhanh sự phát triển, tiến 
hành những bước nhảy khi chưa có điều kiện chín muồi, bất chấp những quy luật khách quan. 
Câu 4: Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và vạch ra ý nghĩa phương pháp luận của nó.  (Quy luật mâu thuẫn)
1. Đặt vấn đề. 
	Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn), là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, là hạt nhân của phép biện chứng, nó vạch ra nguồn gốc và động lực của sự phát triển.
2. Các khái niệm. 
	Nội dung cơ bản của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập được làm sáng tỏ thông qua một loạt những phạm trù cơ bản: “ mặt đối lập”, “sự thống nhất” và “ đấu tranh của các mặt đối lập” 
	- Mặt đối lập là phạm trù triết học để chỉ những đặc điểm, thuộc tính, tính quy định vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời là điều kiện, là tiền đề tồn tại của nhau.
	- Mâu thuẫn biện chứng là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
	- Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa nhau, cùng tồn tại không thể tách rời nhau của các mặt đối lập
	- Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập theo khuynh hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau. 
3. Nội dung quy luật 
 a.Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. 
	Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn biện chứng cũng bao hàm cả "sự thống nhất" lẫn "đấu tranh" của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối. 
	Mâu thuẫn là sự tác động lẫn nhau của các mặt, các khuynh hướng đối lập. Chính sự tác động qua lại, sự đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc vận động và phát triển, là xung lực của sự sống. Chẳng hạn, tư tưởng, nhận thức của con người không thể phát triển, nếu không có sự cọ xát thường xuyên với thực tiễn, không có sự tranh luận để làm rõ đúng sai... 
	Sự vận động và sự phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và sự thay đổi. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. 
	Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, nó tồn tại trong tất cả các sự vật và hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật và hiện tượng. 
 b. Phân loại mâu thuẫn (bên trong – bên ngoài, cơ bản – không cơ bản, chủ yếu – thứ yếu, đối kháng – không đối kháng)
4. Ý nghĩa phương pháp luận. 
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn. 
- Để phân tích đúng bản chất của sự vật, trước hết phải nhận thức sự vật như một thực thể đồng nhất, tiếp đó phải nghiên cứu những mặt khác nhau, những mặt đối lập và tác động qua lại giữa các mặt đối lập để nhận biết mâu thuẫn và nguồn gốc của sự vận động và phát triển. 
- Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển của các mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua từng giai đoạn. 
- Phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn một cách thực tế. 
- Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng ta không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện; phải tạo điều kiện thức đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết. 
- Đối với các mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Điều đó tuỳ thuộc vào bản chất của mâu thuẫn, vào những điều kiện cụ thể. Phải có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn. 
Câu 5: Trình bày nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Đảng ta đã vận dụng quy luật này trong việc đổi mới đất nước hiện nay như thế nào?
	Quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ cảu LLSX là một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển xã hội, quy luật này nói lên vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX và sự phụ thuộc của QHSX đối với LLSX. Đồng thời nó cũng tác động trở lại đối với LLSX.
1. Các khái niệm PTSX, LLSX và QHSX
* PTSX: - Là cách thức con người sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất trong những giai đoạn lịch sử nhất định
	- Kết cấu: thống nhất của LLSX ở một trình độ phát triển nhất định với một QHSX tương ứng
 * LLSX: - Biểu hiện mqh giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất, sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với TLSX, phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con người
	- Kết cấu: gồm người lao động (thể lực, trí lực, tâm lực) và TLSX (đối tượng lao động và TLLĐ)
 * QHSX :- Là mqh giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, bao gồm quan hệ về sở hữu đối với TLSX; về tổ chức, quản lý sản xuất và về phân phối sản phẩm lao động xã hội
	- Kết cấu: 3 mặt: quan hệ về sở hữu đối với TLSX (sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân), quan hệ về tổ chức, quản lý sản xuất (phân công lao động xã hội, cơ chế quản lý kinh tế), quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
2. Nội dung quy luật: 
	LLSX và QHSX là hai mặt của PTSX, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người – Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX.
	Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của QHSX vào sự phát triển của LLSX. Đến lượt mình QHSX tác động trở lại đối với LLSX.
	 Tính chất của LLSX là tính chất của TLSX và của lao động. Khái quát có 2 hình thức cơ bản là: tính chất các nhân riêng lẻ, hoặc tính chất xã hội. Còn trình độ của LLSX là trình độ phát triển của sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của khoa học công nghệ, công cụ lao động, kỹ thuật, kỹ năng, tri thức của người lao động, trình độ phân công lao động.
	- LLSX quyết định QHSX, vì:
	 + LLSX là yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất, là nội dung của quá trình sản xuất, còn QHSX là yếu tố phụ thuộc vào LLSX, nó là hình thức xã hội của sản xuất nên có tính chất tương đối ổn định, có xu hướng lạc hậu hơn so với sự phát triển của LLSX.
	 + LLSX phát triển làm cho QHSX hình thành, biến đổi, phát triển cho phù hợp với nó. Sự phù hợp của LLSX với QHSX là động lực làm cho LLSX phát triển.
	 + Mâu thuẫn giữa LLSX mới với QHSX cũ được giải quyết bằng cách thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với LLSX. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mâu thuẫn này được giải quyết thông qua đấu tranh giai cấp, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
	- QHSX tác động lại LLSX ở chỗ, nó quy định mục đích của sản xuất, hệ thống tổ chức quản lý sản xuất, phương thức phân phối sản phẩm. Do vậy, nó tác động đến thái độ người lao động. QHSX phù hợp sẽ thúc đẩy LLSX phát triển và ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
	Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX tác động trong lịch qua sự thay thế kế tiếp nhau của các PTSX từ thấp đến cao. Đó là cách nhìn thế giới trên phương diện tổng thể, quy luật chung, xu hướng chung của lịch sử thế giới. Nhưng thực tế thì lịch sử đã chứng minh rằng, không phải bất cứ nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự qua các PTSX.
3 . Vận dụng của Đảng ta trong tình hình đổi mới đất nước hiện nay:
	Nghiên cứu nắm vững quy luật này Đảng ta đã vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn cách mạng:
	+ Việt Nam lựa chọn con đường đi lên XHCN không qua TBCN là một sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với sự phát triển của lịch sử. (phân tích tại sao)
	+ Xuất phát từ đặc điểm chủ yếu của Việt Nam là từ sản xuất nhỏ đi lên xây dựng PTSX XHCN, nên theo quy luật này. Đảng ta cho rằng: phát triển LLSX, thực hiện CNH – HĐH đất nước là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
	+ Phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, thiết lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến cao, đa dạng hoá hình thức sở hữu.
	+ Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hưỡng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Câu 6 : Trình bày nội dung quy luật cơ sơ hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Nhận thức và vận dụng quy luật của Đảng ta?
1. Khái niệm CSHT và KTTT:
	* Cơ sở hạ tầng (CSHT): là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
	Đặc trưng : Cấu thành từ những QHXH ;	tạo thành cơ cấu kinh tế; mang tính giai cấp
	* Kiến trúc thượng tầng (KTTT): là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
 Đặc trưng (cấu thành từ 2 bộ phận: tư tưởng, quan điểm xã hội và những thiết chế tương ứng; nảy sinh trên 1 CSHT nhất định, phản ánh và tác động trở lại CSHT; mang tính giai cấp)
2. Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
 Giữa CSHT và KTTT có mối quan hệ biện chứng, gắn bó hữu cơ không tách rời nhau: 
	* CSHT quyết định KTTT:
	 - CSHT quyết định KTTT,vì: CSHT là những quan hệ vật chất – kinh tế nên quyết định các quan hệ xã hội về tư tưởng. Nó quyết định sự ra đời, cơ cấu, tính chất của KTTT, quyết định sự vận động biến đổi của KTTT. Tức là, CSHT nào thì sinh ra KTTT đó. Những biến đổi căn bản trong CSHT sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản trong KTTT. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế – xã hội, cũng như khi chuyển từ một hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác.
	 - Khi CSHT cũ mất đi thì KTTT do nó sinh ra cũng mất theo, khi CSHT mới ra đời thì một KTTT mới phù hợp với nó cũng xuất hiện. Song có những nhân tố riêng lẻ của KTTT cũ vẫn tồn tại dai dẳng sau khi cơ sở kinh tế sinh ra nó đã bị tiêu diệt (tàn dư). Cũng có những nhân tố nào đó của KTTT cũ được giai cấp cầm quyền mới duy trì để xây dựng KTTT mới.
	Như vậy, sự hình thành và phát triển của KTTT do CSHT quyết định. Đồng thời nó còn có quan hệ kế thừa đối với các yếu tố của KTTT của xã hội cũ.
	* KTTT tác động trở lại CSHT:
	Suy cho cùng thì CSHT quyết định KTTT, nhưng KTTT luôn luôn la lực lượng tác động mạnh mẽ trên toàn bộ các mặt của đời sống xã hội và tác động tích cực trở lại đối với CSHT sinh ra nó. Sự tác động tích cực của KTTT đối với CSHT thể hiện ở chỗ:
	- Chức năng xã hội của KTTT là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển CSHT sinh ra nó, đấu tranh xoá bỏ CSHT và KTTT cũ.
	- Trong các bộ phận của KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp, nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng, có tác dụng to lớn đối với CSHT. Nhà nước không chỉ dựa trên hệ tư tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất định của việc kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm những yếu tố vật chất: quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù,để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị, củng cố vững chắc địa vị quan hệ sản xuất thống trị.
	- Trong bản thân KTTT cũng diễn ra quá trình biến đổi, phát triển có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với CSHT. Nếu tác động đó cùng chiều (càng phù hợp) với CSHT thì thúc đẩy sự phát triển của CSHT và ngược lại thì có tác động cản trở sự phát triển của CSHT. Đối với tác động của KTTT trở lại CSHT cũng vậy.
	Như vậy giữa CSHT và KTTT có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó CSHT giữ vai trò quyết định, là nội dung; còn KTTT có tác động trở lại đối với CSHT, là hình thức biểu hiện của CSHT.
3. Ý nghĩa và vận dụng của Đảng ta:
	Nghiên cứu quy luật này giúp ta nắm được quy luật vận động chung của xã hội và phương hướng để phân tích sự tác động của nó trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
	+ Giúp ta có cơ sở khoa học để nhận thức và chỉ đạo hoạt động trong việc giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng CSHT và KTTT ở nước ta. Mối quan hệ giữa nhân tố kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới đất nước.
	+ Quá trình đổi mới đất nước theo CNXH là đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá tư tưởng,Trong khi lấy đổi mới kinh tế làm nhiệm vụ hàng đầu thì đồng thời phải từng bước đổi mới chính trị cho hù hợp, làm cho kinh tế, văn hoá xã hội phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện.
	+ CSHT trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, có nhiều QHSX gắn với các hình thức sở hữu khác nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Trong đó phải làm cho kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể, tạo thành nền tảng của kinh tế quốc dân.
	+ Về KTTT ở nước ta phải xây dựng trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Xây dựng hệ thống chính trị XHCN do Đảng cộng sản lãnh đạo, trong đó nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Câu 7 : Luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của C.Mác 
Cách đây hơn 100 năm, C.Mác đã dự đoán: “Đến một trình độ phát triển nào đó thì “tri thức xã hội phổ biến” (khoa học) biến thành “lực lượng sản xuất trực tiếp””(1). Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, luận điểm đó của C.Mác đang dần trở thành hiện thực một cách đầy thuyết phục.
1- Những điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Khoa học và cùng với khoa học là công nghệ là những thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Tri thức khoa học được vật hóa thành công cụ sản xuất (công cụ lao động), như máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, đó là yếu tố động nhất và có vai trò quyết định đối với phương thức sản xuất. Trong quan hệ sản xuất, tri thức khoa học có mặt trong khoa học quản lý, tổ chức và phân phối. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử xã hội nói chung, của phương thức sản xuất nói riêng, vai trò của khoa học và công nghệ cũng ngày càng được nâng cao, ngày càng thể hiện rõ ràng dưới dạng một thực tiễn xã hội trực tiếp nhờ vào quá trình không ngừng biến đổi và hoàn thiện dần của chúng. Từ chỗ là lực lượng sản xuất tiềm năng, ngày nay, khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Bước chuyển này không phải là ngẫu nhiên, mà chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện nhất định hay “một trình độ phát triển nào đó” như C.Mác đã dự đoán. Vậy, những điều kiện đó là gì?
Điều kiện đầu tiên phải thuộc về sản xuất: nền sản xuất xã hội phải đạt đến một trình độ phát triển cao, tạo cơ hội và địa bàn để khoa học và công nghệ phát huy vai trò là lực lượng sản xuất trực tiếp của mình.
Trong những nền sản xuất xã hội còn ở trình độ phát triển thấp trước đây, khoa học không thể trực tiếp đi vào sản xuất, mà phải trải qua khâu trung gian thực nghiệm khoa học, nhiều khi kéo dài hàng trăm năm. Tri thức khoa học phải thông qua một quá trình thực nghiệm khoa học lâu dài, phức tạp, con người mới tìm ra cách vận dụng những thành tựu thu được qua thực nghiệm đó vào sản xuất. Quá trình này thường diễn ra rất chậm chạp. Trong điều kiện như vậy, khoa học chỉ có thể biểu thị như một lực lượng sản xuất tiềm năng, chứ chưa thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Ngày nay, khi sản xuất xã hội đã đạt đến trình độ phát triển cao, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển, chính sản xuất lại đặt ra những vấn đề mới, phức tạp, đòi hỏi khoa học phải có phương thức giải quyết phù hợp, kịp thời nhằm thúc đẩy sản xuất tiếp tục phát triển và qua đó, khoa học cũng phát triển theo. Như vậy, trong điều kiện xã hội ngày nay, sản xuất đã tạo ra những cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng, những nhu cầu cấp thiết cho sự xuất hiện những tri thức khoa học mới, những ngành khoa học mới. Đến lượt mình, những tri thức khoa học mới lại được nhanh chóng vật hóa để trở thành công cụ sản xuất mới và trực tiếp tham gia vào các quá trình sản xuất. Ở đây, khoa học không phục vụ sản xuất một cách thụ động, mà tham gia một cách tích cực, chủ động và trở thành một yếu tố không thể thiếu được của lực lượng sản xuất nói riêng, của quá trình sản xuất xã hội nói chung. Do vậy, chỉ có đến lúc này, khoa học mới có đầy đủ điều kiện để trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Điều kiện thứ hai thuộc về sự phát triển của bản thân khoa học: khoa học phải đạt đến một trình độ phát triển cao đến mức đủ sức giải quyết những vấn đề cấp thiết do thực tiễn xã hội, đặc biệt là những vấn đề do thực tiễn sản xuất trực tiếp đặt ra.
Trong nền khoa học hiện đại, không một vấn đề nào do sản xuất đặt ra mà tri thức của một ngành khoa học, thậm chí là của vài ngành khoa học cụ thể, có thể tự thân giải quyết được hoàn toàn. Bởi vậy, ngày nay, sự thống hợp khoa học, tổng hợp tri thức khoa học là xu hướng phát triển tất yếu của khoa học và điều này cũng hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của thực tiễn sản xuất hiện đại. Trong thời đại ngày nay, trong khoa học đang diễn ra quá trình tương tác mạnh mẽ giữa các khoa học, quá trình liên kết khoa học theo hướng tổng hợp tri thức của các khoa học hiện đại nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc do thực tiễn sản xuất và thực tiễn xã hội đặt ra, như vấn đề khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sống, vấn đề phát triển bền vững, vấn đề hội nhập toàn cầu mà trước hết, là hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là những vấn đề về con người (tăng cường sức khỏe, phòng, chống bệnh tật, nâng cao tuổi thọ, và sự phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần của con người). Bởi thế, sự phát triển của khoa học nói riêng, xã hội nói chung đều nhằm mục đích thỏa mãn những nhu cầu ngày càng cao của con người, phục vụ cho sự phát triển toàn diện của con người với tư cách một thực thể sinh học - xã hội, một thực thể sống hài hòa giữa môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Những khám phá mới của khoa học về con người, như làm rõ nguồn gốc và bản chất của con người, lập và giải mã bản đồ gien người, nhân bản vô tính người, làm rõ vai trò và chức năng của tế bào gốc ở người, trí tuệ nhân tạo, những khả năng còn tiềm ẩn ở con người, v.v. đang chứng tỏ rằng, con người không chỉ là chủ thể sáng tạo khoa học, chủ thể của quá trình sản xuất xã hội, của lịch sử, mà còn là đối tượng khai thác của khoa học và công nghệ hiện đại.
Rõ ràng là, ngày nay, khoa học đang tiến rất gần đến mục tiêu như C.Mác đã tiên đoán: “Khoa học tự nhiên bao hàm trong nó khoa học về con người cũng như khoa học về con người bao hàm trong nó khoa học tự nhiên: đó sẽ là một khoa học”(2). Với trình độ phát triển cao như hiện nay, khoa học hoàn toàn có thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Điều kiện thứ ba để khoa học biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp là sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển; là xu thế toàn cầu hóa, trước hết là toàn cầu hóa kinh tế trên cái nền của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,đặc biệt là cách mạng công nghệ thông tin. Nhờ sự phát triển của công nghệ hiện đại, mà chủ đạo là công nghệ thông tin, những phát minh, những thành tựu mới của khoa học không còn là sở hữu riêng, độc quyền của các nhà khoa học hay của các nước có những phát minh đó; chúng đã nhanh chóng lan tỏa đi khắp thế giới và được ứng dụng kịp thời vào quá trình sản xuất xã hội ở nhiều nước khác nhau, bằng nhiều cách thức khác nhau, như chuyển giao công nghệ, nhượng quyền sử dụng, mua bán phát minh, sáng chế, thông qua các công ty liên quốc gia, v.v.. Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, WTO (Tổ chức Thương mại thế giới) đang giữ vai trò rất q

File đính kèm:

  • docxcau_hoi_on_kiem_tra_mon_triet_hoc.docx
Giáo án liên quan