Báo cáo Chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học môn toán lớp 2 theo mô hình vnen

1.Thuận lợi:

- Trường Tiểu học Đồng Cương là trường đầu tiên của huyện Yên Lạc tham gia giảng dạy thí điểm theo mô hình VNEN và được nhận nhiều sự quan tâm hỗ trợ của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Yên Lạc, của chính quyền địa phương và đặc biệt là sự quan tâm, giúp đỡ của BGH nhà trường luôn tạo mọi điều kiện để giúp tôi hoàn thành tốt công tác dạy và học đúng theo tinh thần của VNEN.

- Cơ sở vật chất trường lớp tương đối khang trang. Lớp học có đầy đủ hệ thống bóng đèn điện, máy quạt, cửa sổ, cửa chính cung cấp đủ ánh sáng cho các em học tập. Môi trường học tập sạch sẽ, thân thiện.

- Đa số học sinh chăm ngoan, có ý thức học tập tốt.

- Tài liệu học tập được thiết kế theo kiểu “3 trong 1” (bao gồm cả sách giáo khoa, sách giáo viên và vở bài tập), nhìn vào tài liệu rất thuận tiện cho cả giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học. Mặc khác tài liệu học tập cung cấp về được in màu và tranh ảnh rất đẹp nên gây hứng thú học tập của học sinh.

- Đa số phụ huynh nhiệt tình rất quan tâm đến việc học tập của con em mình, mua sắm đầy đủ đồ dùng học tập cho học sinh. Thường xuyên phối kết hợp với giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như trang trí lớp.

 

doc12 trang | Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 795 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học môn toán lớp 2 theo mô hình vnen, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i trường học tập sạch sẽ, thân thiện.
- Đa số học sinh chăm ngoan, có ý thức học tập tốt.
- Tài liệu học tập được thiết kế theo kiểu “3 trong 1” (bao gồm cả sách giáo khoa, sách giáo viên và vở bài tập), nhìn vào tài liệu rất thuận tiện cho cả giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học. Mặc khác tài liệu học tập cung cấp về được in màu và tranh ảnh rất đẹp nên gây hứng thú học tập của học sinh.
- Đa số phụ huynh nhiệt tình rất quan tâm đến việc học tập của con em mình, mua sắm đầy đủ đồ dùng học tập cho học sinh. Thường xuyên phối kết hợp với giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như trang trí lớp.
2. Khó khăn :
*Về phía giáo viên:  
- Đây là mô hình trường học kiểu mới cho nên giáo viên vừa trải nghiệm, vừa rút kinh nghiệm chắc chắn không tránh khỏi bỡ ngỡ, lúng túng với phương pháp giảng dạy mới.
- Tuy không soạn bài nhưng giáo viên mất rất nhiều thời gian vào việc chuẩn bị đồ dùng học tập như: phiếu bài tập ( cá nhân, nhóm), thẻ từ, thẻ số ..  và góc học tập môn toán chưa thật sự phong phú, chưa thu hút được học sinh.
*Về phía học sinh:
- Đây là năm đầu tiên học sinh lớp 2 được tiếp cận với phương pháp học mới nên các em vẫn còn lúng túng, chưa biết cách tự học cho nên dẫn đến tình trạng khi ngồi học theo nhóm các em không chịu hợp tác làm việc mà chỉ tranh thủ ngồi nói chuyện, làm việc riêng.
- Trong học tập, một số nhóm trưởng chưa nhanh nhẹn, còn nhút nhát, chưa biết cách điều khiển các bạn học nhóm.
- Từ những thực trạng trên, tôi đã đưa ra một số biện pháp sau nhằm khắc phục những tồn tại như sau:
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1.Tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình VNEN là như thế nào?
Phương pháp dạy học theo mô hình VNEN là phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm vừa là giá đỡ, vừa là trụ cột chi phối các hoạt động sư phạm trong nhà trường. Tổ chức lớp học không chỉ phù hợp với phương pháp của VNEN mà còn tạo ra môi trường sư phạm thân thiện, dân chủ, hợp tác giữa các thành viên trong trường và với cộng đồng. Mô hình VNEN sẽ tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh phát huy tốt nhất các năng lực cá nhân và giá trị đích thực của các em.
Phương pháp dạy học môn toán trong mô hình nhà trường VNEN là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, giúp học sinh bước đầu rèn luyện khả năng tự học và hình thành phương pháp học tập, làm việc tích cực, chủ động, sáng tạo.
2.Đổi mới phương pháp dạy của giáo viên theo Mô hình VNEN: 
Đối với mô hình VNEN thì việc truyền thụ kiến thức của thầy theo phương pháp hiện hành được chuyển thành việc tự học của học sinh.Thầy chỉ là người tổ chức, tư vấn và hướng dẫn cho học sinh tự học theo tài liệu hướng dẫn học. Giáo viên không phải soạn bài, thiết kế bài giảng như phương pháp hiện hành nhưng phải nghiên cứu thật kỹ tài liệu để chuẩn bị đồ dùng dạy học và các phương án, các tình huống có thể xẩy ra. Vậy đổi mới phương pháp dạy học chúng ta phải nghiên cứu kỹ tài liệu là vì:
+Tài liệu hướng dẫn học của mô hình “Trường tiểu học mới” được viết theo hướng tổ chức dạy học thông qua trải nghiệm. Cách viết này không chú trọng trình bày ôm đồm nhiều kiến thức, không dùng nhiều chữ để mô tả sự vật hiện tượng mà thiên về việc mô tả tổ chức các hoạt động độc lập, hoặc nhóm hợp tác, khuyến khích các hoạt động tự học của học sinh. Ngoài ra, tài liệu hướng dẫn học cũng sử dụng nhiều tranh ảnh để phản ánh và minh họa những kiến thức trong các bài học.
+ Bản chất của tài liệu là một bản thiết kế “3 trong 1” dùng cho HS và dùng cho cả GV trong trường Tiểu học thực hiện theo mô hình trường học mới VNEN. Với HS, đây là tài liệu hướng dẫn các em tự học để đạt mục tiêu của từng bài, tiến tới đạt mục tiêu của năm học. Với GV, đây là một bản thiết kế để GV dựa vào đó biết cách tổ chức các hoạt động học tập cho HS, biết cách kiểm tra, biết cách đánh giá kết quả học tập của học sinh, biết tự kiểm soát việc dạy học của chính mình, qua đó giúp HS rèn luyện kỹ năng thực hành phát hiện và giải quyết vấn đề.
+ Hình thức tổ chức dạy học khá đa dạng: hình thức học cá nhân, hình thức học theo cặp đôi, hình thức học theo nhóm, hình thức tất cả HS học cùng với GV, hình thức cá nhân học với cộng đồng. Mỗi hình thức này được thể hiện rất rõ bằng những logo trước mỗi hoạt động của bài. Tuy nhiên, khi thực hiện giáo viên cần căn cứ vào đặc điểm, trình độ của HS, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng lớp từng trường để chủ động lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, chủ động điều chỉnh, thay thế hoặc bổ sung những bài tập hoặc những hoạt động sát với thực tế đời sống, phù hợp với truyền thống văn hóa của cộng đồng dân cư nơi HS đang sinh sống, phù hợp với đặc điểm và trình độ HS trong lớp học của mình sao cho đảm bảo dạy học theo đúng mục tiêu, chuẩn kiến thức kỹ năng đã xác định. Đảm bảo những yêu cầu tối thiểu cần đạt sau mỗi giai đoạn học tập.
3.Tiến trình dạy theo Mô hình VNEN:
Mô hình trường học kiểu mới được chuyển đổi từ hoạt động dạy của giáo viên sang hoạt động học của học sinh, giúp học sinh phát huy tối đa phương pháp học nhóm. HS tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức, tự giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và giáo viên chỉ là người hướng dẫn, hỗ trợ khi cần thiết.Để góp phần tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh mô hình VNEN giáo viên tổ chức dạy học theo năm bước và học sinh thực hiện theo mười bước học tập.
3.a. Năm bước dạy học của giáo viên theo VNEN:
(1) Tạo hứng thú	(2) Trải nghiệm 
(3) Phân tích- khám phá - rút ra bài học	(4) Thực hành
(5),Vận dụng 
Phân tích 5 bước dạy học trong bài 45: Tìm số trừ ( Tài liệu toán 2 trang 70) tập 1B.
A. Hoạt động cơ bản: HS thực hành theo (logo).
* Bước 1: Tạo hứng thú cho HS
Muốn không khí lớp học vui tươi, kích thích sự tò mò, khơi dậy hứng thú của học sinh về chủ đề sẽ học thì bản thân mỗi giáo viên phải nghiên cứu thật kỹ tài liệu để lựa chọn hình thức sao cho phù hợp, có thể là: đặt câu hỏi, câu đố vui, kể chuyện, một tình huống, tổ chức trò chơi hoặc sử dụng các hình thức khác..
+ Hoạt động 1: Chơi trò chơi “Ai nhanh, ai đúng”( tài liệu toán lớp 2 trang 70), GV tổ chức HS chơi trò chơi theo hướng dẫn học bằng các thẻ số và thẻ dấu. Ghép các thẻ số và thẻ dấu thành các phép tính đúng như hướng dẫn học:
 10 - 3 = 7 15 - 6 = 9
 10 - 7 = 3 15 - 9 = 6
Thông qua trò chơi, HS sẽ cảm thấy trò chơi mà mình vừa được tham gia rất gần gũi với bản thân,được ôn lại cá bảng trừ đã học, không chỉ thế trò chơi còn kích thích tính tò mò, khơi dậy hứng thú trong học tập giúp các em muốn tiếp tục được trải nghiệm kiến thức mới. 
*Bước 2: Trải nghiệm: Giáo viên cần tìm hiểu vốn kinh nghiệm và những hiểu biết sẵn có của học sinh trước khi học một kiến thức mới và tổ chức cho học sinh trải nghiệm.
+Hoạt động 2: Thực hiện các hoạt động sau .
- Nêu số bị trừ và hiệu trong phép trừ sau: 
 8 - 3 = 5 
- Viết tiếp vào chỗ chấm :
 3 = 8 - ..
- Em nói cách tìm số trừ trong phép trừ:
 8 - . . = 5
 Số trừ bằng số bị trừ trừ đi hiệu
*Bước 3: Phân tích- khám phá - rút ra bài học 
Tìm số trừ chưa biết x trong phép trừ 10 –x = 6 sách hướng dẫn học
- Chỉ ra số bị trừ, số trừ và hiệu trong phép trừ 
 10 - x = 6
- Số nào đã biết, số nào chưa biết?
- Để tìm số trừ chưa biết x ta làm thế nào?
- Em đọc và làm theo từng bước:
 10 – x = 6
 x = 10 - 6 
 x = 4
*Bước 4: Thực hành
HS thực hành hoạt động 3 (trang 71) theo sách hướng dẫn học:
Đọc kĩ phần bài học đóng khung, đọc ví dụ rồi thực hành làm theo 
 10 – x = 8 7 – x = 2
B- Hoạt động thực hành
* Bước 5: Vận dụng
HS làm việc cá nhân rồi kiểm tra kết quả theo cặp, nhóm các bài 1,2,3,4 (trang 71,72) rồi báo cáo với thầy /cô giáo kết quả những việc em đã làm.
Tất cả các bài tập ở hoạt động này tương đối cụ thể với HS . Trong một tiết học, làm thế nào để biết được mức độ nắm bài của học sinh? Để giải quyết được câu hỏi này, chúng tôi đã đưa ra cách giải quyết như sau:
Giáo viên trực tiếp đến kiểm tra từng học sinh trong nhóm bằng những hệ thống câu hỏi đã chuẩn bị sẵn. Hoặc kiểm tra đánh giá bằng nhận xét qua quan sát việc HS làm cá nhân có hoàn thành từng mục tiêu trong quy trình các bước về nội dung học hay không và tìm biện pháp giải quyết.
Ví dụ : 8 - 3 = 5
Sau khi được trải nghiệm - phân tích- khám phá- rút ra kiến thức mới. Bước đầu HS sẽ nắm được quy trình thực hiện phép tính tìm số trừ với số có một chữ số qua bài tập 2 như sau:
+Việc 1: Thực hiện các hoạt động sau .
- Nêu số bị trừ và hiệu trong phép trừ sau: 
 8 - 3 = 5 
- Viết tiếp vào chỗ chấm :
 3 = 8 - ..
- Em nói cách tìm số trừ trong phép trừ:
 8 - . . = 5
* Số trừ bằng số bị trừ trừ đi hiệu 
+Việc 2:  Tìm số trừ chưa biết x trong phép trừ 10 –x = 6
- Chỉ ra số bị trừ, số trừ và hiệu trong phép trừ 
 10 - x = 6
- Số nào đã biết, số nào chưa biết ?
- Để tìm số trừ chưa biết x ta làm thế nào ?
- Em đọc và làm theo từng bước:
 10 – x = 6
 x = 10 - 6 
 x = 4
Đầu tiên GV quan sát để xem HS có biết nêu số bị trừ và hiệu trong phép trừ không ? 
-Sau đó HS có nắm được số nào đã biết và số nào chưa biết không?
- Kết quả đánh giá bằng nhận xét sẽ có 2 khả năng xảy ra:
+ Nếu tất cả HS đều làm đúng GV chuyển sang quy trình học tiếp theo, đồng thời thực hiện quá trình kiểm tra, đánh giá tiếp theo.
+ Nếu có HS chưa nói đúng, làm đúng GV tìm hiểu nguyên nhân và cùng học sinh điều chỉnh cách dạy, cách học để giúp đỡ các HS này hoàn thành mục tiêu học trong tiến trình này là phải Số trừ bằng số bị trừ trừ đi hiệu. 
+ Đối với những HS làm đúng GV giao nhiệm vụ học tập mới cho các HS này ( đây chính là HS được học theo khả năng và sự tiến bộ của bản thân mình).
-Chẳng hạn: HS làm sai ở bước 10 - 6 điều đó có nghĩa HS chưa thuộc bài Bảng trừ. Biết được nguyên nhân, GV có thể giải quyết bằng cách GV trực tiếp hướng dẫn hoặc phân công các bạn trong nhóm hướng dẫn các bạn
Để làm tốt 5 bước này, đòi hỏi bản thân người giáo viên phải tự thiết kế, đạo diễn các hoạt động học tập để giúp HS tự phát hiện kiến thức, phân tích kiến thức và sử dụng kiến thức.
Ngoài ra, để dạy học theo mô hình VNEN đạt hiệu quả thì GV phải phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh cùng tham gia vào hoạt động giáo dục của nhà trường như: trang trí lớp theo tinh thần VNEN, trong mỗi hoạt động dạy đều có phần dành cho HS học tại cộng đồng ( trong tài liệu học tập phần này được gọi là  Hoạt động ứng dụng), đó là những hoạt động HS nhờ sự kiểm tra kiến thức đã học hoặc học hỏi ở ông bà, người thân trong gia đình, những người sống cùng thôn xóm để vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã học ở trường vào cuộc sống của chính các em.
Ví dụ: Ứng dụng Bài 45: Tìm số trừ (toán 2 tập 1B  trang 72) là Giáo viên giao bài tập ứng dụng về nhà Giải bài toán với sự giúp đỡ của người lớn: 
Mẹ mua 35 bông hoa, mẹ đã cắm vào lọ một số bông hoa còn lại 15 bông hoa. Hỏi mẹ đã cắm vào lọ bao nhiêu bông hoa?
Ngoài ra, bản thân mỗi GV phải có quyển sổ dự kiến kế hoạch dạy học ghi lại những thành công hoặc những khó khăn vướng mắc khi thực hiện các bước dạy học trên lớp.
-GV tự học, tự bồi dưỡng, tự chủ, linh hoạt trong phương pháp dạy học. Tích cực tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn, các hoạt động chuyên đề của tổ của trường để học tập về đổi mới phương pháp dạy học theo tinh thần VNEN.
-Trong sinh hoạt tổ chuyên môn kịp thời đưa ra những khó khăn, vướng mắc như: biện pháp để học sinh học nhóm tốt, biện pháp để giúp em nhóm trưởng có thể điều khiển tốt các hoạt động học tập của nhóm, hoặc biện pháp về đổi mới phương pháp dạy học của một hoạt động nào đó ở một bài dạy cụ thể..trong tổ sẽ cùng nhau thảo luận để tìm ra cách giải quyết tốt nhất.
3.b.Mười bước học tập của học sinh theo Mô hình VNEN:
Mô hình trường tiểu học mới là mô hình dạy học chuyển từ hoạt động dạy của GV sang hoạt động học của học sinh. Thông qua tài liệu, HS tự học, tự giác, tự quản, tự trọng, tự tin tự đánh giá, tự hợp tác tự rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn và GV chỉ là người định hướng, hướng dẫn HS khi cần thiết.
Khác với chương trình hiện hành, HS được thực hiện theo 10 bước học tập. Mỗi HS “ trường Tiểu học mới” khi đến trường luôn ý thức được rằng mình phải bắt đầu và kết thúc hoạt động học tập như thế nào mà không cần chờ đến sự nhắc nhở của GV. 10 bước học tập đó là:
1.Chúng em làm việc nhóm. Nhóm trưởng lấy tài liệu và đồ dùng học tập cho cả nhóm.
2. Em đọc mục tiêu bài học rồi viết tên bài học vào vở ô ly ( lưu ý không được viết vào sách).
3. Em đọc mục tiêu của bài học.
4. Em bắt đầu hoạt động cơ bản ( nhớ xem phải làm việc cá nhân hay nhóm).
5. Kết thúc hoạt động cơ bản, em gọi thầy cô giáo để báo cáo những gì em đã làm được .
6. Em thực hiện hoạt động thực hành.
+ Đầu tiên, em làm việc cá nhân.
+ Em chia sẻ với bạn ngồi cùng bàn ( giúp nhau sửa chữa những bài làm còn sai sót).
+ Em trao đổi với cả nhóm, cùng sửa bài cho nhau, luân phiên nhau đọc
7. Hoạt động ứng dụng ( gắn liền với gia đình và địa phương)
8. Chúng em đánh giá cùng thầy, cô giáo.
9.Kết thúc bài, em viết vào bảng đánh giá ( nhớ suy nghĩ kĩ khi viết và lưu ý về đánh giá của thầy, cô giáo).
10. Em đã học xong bài mới hoặc em phải ôn lại phần nào.
Ưu điểm của phương pháp học nhóm được phát huy rất rõ nét trong học nhóm theo mô hình VNEN, tất cả HS trong nhóm đều được luân phiên nhau làm nhóm trưởng, hướng dẫn các bạn trong nhóm để điều hành các hoạt động do GV yêu cầu và không có một bất cứ học sinh nào ngoài cuộc, không một học sinh nào ngồi chơi.
Về nhà, các em còn được học hỏi, được sự hỗ trợ , cố vấn của gia đình sau mỗi bài học ở trên lớp. Góp phần tích cực vào việc rèn kỹ năng sống, phát triển thêm năng lực học tập của học sinh.
4.Cách chuẩn bị đồ dùng dạy học cho các loại bài tập được sử dụng cho việc thực hành qua bài 45:
Dựa vào tài liệu, dựa vào bài dạy cụ thể và tùy vào trình độ HS của lớp mình, sau khi giáo viên lựa chọn hình thức dạy học phù hợp. Bước tiếp theo phải chuẩn bị đồ dùng dạy học thật chu đáo trước khi đến lớp và sử dụng có hiệu quả các thiết bị dạy học được cung cấp.
Vì thực tế khi thực hiện tất cả các hoạt động như trong hướng dẫn học, chúng tôi nhận thấy: Việc chuẩn bị đồ dùng cho học sinh hoạt động hay chơi trò chơi là một việc hết sức khó khăn. Nhiều khi học sinh đến góc học tập để lấy các đồ dùng học tập như trong hướng dẫn học, các em không có đồ dùng để lấy hoặc không lấy đủ đồ dùng, các em đã rất thất vọng và không biết phải làm gì tiếp theo. Để khắc phục những tồn tại trên tôi đã đưa ra một số giải pháp sau:
Trường hợp 1: Nếu bài học được thực hiện hoạt động nhóm hay cá nhân như trong tài liệu thì giáo viên phải chuẩn bị phiếu bài tập. Để có được phiếu bài tập, chúng tôi phải chuẩn bị ít nhất trước đó 2 ngày. Cứ cuối mỗi tuần, chúng tôi thường tổ chức họp tổ khối để thảo luận và thống nhất cách thực hiện các bài trong tuần kế tiếp và chúng tôi cũng không quên phân công nhiệm vụ cho từng người.
*Chẳng hạn: Giáo viên lớp 2A làm đồ dùng bài tập 1(HĐCB) của bài 45: Tìm phép trừ  thì GV lớp 2B làm phiếu cá nhân cho HS các bài ở HĐTH....
Trường hợp 2: Đối với trường hợp thay đổi hình thức dạy học của một bài nào đó chẳng hạn như: không thảo luận nhóm 2 mà thay vào đó là hình thức trò chơi. Ở tình huống này, giáo viên tự làm hoặc có thể linh động vào những lúc rảnh rỗi nhờ các em trong ban hội đồng tự quản hoặc nhờ các nhóm trưởng viết giúp cô hoặc làm giúp cô thẻ từ để có đồ dùng phục vụ cho tiết học hôm sau.
Trường hợp 3: GV và HS có thể làm thêm, điều chỉnh, bổ sung, thay thế các đồ dùng dạy học, các trò chơi, câu đố,phù hợp với nội dung học tập và điều kiện cơ sở vật chất của lớp học.
Ví dụ: Bài 43 Ôn lại bảng trừ ( tài liệu toán lớp 2 tập 1B trang 63) vì điều kiện lớp học không thể tổ chức HS chơi trò chơi truyền điện được nên GV có thể linh động thay đổi hình thức chơi, có thể là chơi tiếp sức trong nhóm hoặc chơi cả lớp
5.Xây dựng góc học tập môn toán để học sinh thực hành, thí nghiệm:
Từ góc học tập, chúng tôi có thể tiếp cận được dễ dàng với các đồ dùng dạy - học và các tài liệu khác nhau. Chính bản thân các em cũng rất vui khi được cùng với cô giáo xây dựng các góc môn học. Để góc học toán trở nên phong phú, gây được niềm say mê đối với học sinh trong việc tổ chức sắp xếp góc học toán cũng như các góc môn học khác và giúp các em khám phá, phát huy sự đam mê làm việc và học tập. Vì thế, trong góc học tập môn toán, chúng tôi cùng với HS chú ý tìm những loại tài liệu sau:
*Các loại đồ vật dễ kiếm ở địa phương: Những chiếc lá vàng, những viên bi, những viên sỏi đã được rửa sạch, những nắp chai bia, những que tính..mà giáo viên và học sinh mang đến được trưng bày trong góc môn toán sẽ giúp cho các em tự làm phép cộng có thể là: 
Phép trừ có hiệu bằng 10, 12 - 2,16 - 6,Các em vui thích khi được chiêm ngưỡng những que tình, những viên bi, những hòn sỏi, ống hút nước được xếp thành các phép tính, các dãy số.
*Tài liệu in ấn: sách, bài báo, bài viết trong tạp chí Toán học tuổi trẻ, tờ rơi, áp phích, tranh minh họa về toán họcgiúp học sinh tăng cường hiểu biết và mở rộng kiến thức.
*Các vật phẩm do giáo viên, cộng đồng, học sinh làm ra: hình vẽ, các sản phẩm cắt dán hay sản phẩm thực hành.
*Đồ dùng được cấp về :  thước, compa, eke, bảng tính..
Ngoài ra, giáo viên luôn quan sát xem học sinh của mình thích học môn toán theo cách nào ? Đọc, nghiên cứu từ các tài liệu hay thực hiện các phép tính từ các đồ vật được mang đến từ cộng đồng hay làm tính từ việc trao đổi với bạn trong lớpEm nào có kết quả học tập tốt hơn. Từ đó, giáo viên động viên, thúc đẩy lòng yêu thích công việc mà học sinh đang thực hiện.
- Muốn đánh giá đúng nhóm nào làm nhanh nhất, giơ thẻ hoàn thành lên trước hay lên sau và để giáo viên kịp thời kiểm tra hay giúp đỡ các nhóm thì vị trí đứng của giáo viên vô cùng quan trọng. Sau một học kỳ thực hiện, tôi nhận thấy vị trí giáo viên đi xung quanh bốn bức tường của lớp là phù hợp nhất vì GV có thể vừa kiểm tra nhóm đó vừa có thể nhìn bao quát được các nhóm khác làm việc và kịp thời đến hỗ trợ khi cần thiết.
IV.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Qua một thời gian thực hiện, GV và HS từng bước được trải nghiệm, từng bước làm quen với cách dạy và cách học mới này. Tôi nhận thấy việc áp dụng mô hình trường tiểu học kiểu mới vào trong giảng dạy hiện nay thật sự rất hiệu quả. Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, giáo viên không còn làm việc nhiều như trước đây nữa. Sự chuẩn bị đồ dùng dạy học của giáo viên đã nhẹ nhàng hơn rất nhiều.
Đặc biệt, HS yếu giảm hẳn đó là nhờ sự hợp tác, đoàn kết, giúp đỡ giữa học sinh với học sinh rất cao ở trong nhóm và thể hiện rất rõ trong từng tiết học.
Góc học toán phong phú, các em cảm thấy thích thú khi được cô giáo trưng bày những phép tính bằng những đồ vật được mang đến lớp do chính bản thân mình làm đúng, trình bày đẹp.
Đối với ban hội đồng tự quản được sự hỗ trợ của GV, được sự tín nhiệm của các bạn trong lớp, các em làm việc rất tốt biết người biết việc, rất có trách nhiệm. Các em trở nên mạnh dạn, tự tin, không còn nhút nhát rụt trè như trước nữa.  HS luôn tự giác, tự học,  tự quản, tự trọng, tự tin tự đánh giá, tự hợp tác tự rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn rất tốt. Đây là Mô hình sơ đồ bóng đèn tỏa sáng đến từng học sinh sau một tiết dạy học sinh kết thúc bài học 100 % học sinh phải hiểu bài và làm bài thực hành tốt ngay tại lớp.
V.KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
Việc giảng dạy theo mô hình trường Tiểu học kiểu mới tuy GV căng thẳng và mất rất nhiều thời gian ở vài tuần đầu vì học sinh chưa quen nhưng khi đã quen với cách học và cách dạy thì sẽ tiết kiệm được thời gian và công sức của GV rất nhiều.
Tôi nhận thấy rằng: tất cả học sinh đều có thể học cách chịu trách nhiệm nếu các em được tạo cơ hội tham gia, được tin tưởng và trao nhiệm vụ. Và chính bản thân mỗi giáo viên phải kiên nhẫn, không nên nóng vội vì học sinh cần có thời gian để hình thành, phát triển các kĩ năng tham gia và những kỹ năng đó chỉ có thể được hình thành, phát triển khi được thực hành và trả nghiệm trong các tình huống thực tiễn.
Tôi thật sự thích thú và tâm đắc với phương pháp giảng dạy theo mô hình này. Tôi tin rằng với sự nỗ lực của giáo viên, sự quan tâm chỉ đạo sát sao của nhà trường, của các ban ngành, đoàn thể chắc chắn mô hình trường tiểu học kiểu mới sẽ thành công tốt đẹp.
Trên đây là 

File đính kèm:

  • docDoi_moi_PP_VNEN.doc