Bài thu hoạch Bồi dưỡng thường xuyên của cá nhân - Năm học 2015–2016 - Trần Đức Đông

Điểm yếu khác trong đánh giá học sinh hiện tại là đánh giá (chấm điểm) mà không có sự phản hồi cho học sinh. GV chấm bài kiểm tra, thường chỉ cho điểm hoặc chỉ phê “sai”, “làm lại” hay chỉ viết ký hiệu sai hay ký hiệu đúng chứ chưa giải thích được rõ cho học sinh biết tại sao sai, sai như thế nào. Một số GV chấm bài có sự phản hồi nhưng phản hồi không đủ, phản hồi tiêu cực, không mang tính xây dựng (Vi dụ, GV phê: làm sai, làm ẩu, không hiểu làm học sinh mất niềm tin, không có động lực để sửa lỗi), làm cho người học chán nản Khi phản hồi của GV đối với bài làm của HS mang sắc thái xúc cảm âm tính, tiêu cực, có thể làm học sinh xấu hổ, mất tự tin. Bên cạnh đó, nếu GV có phản hồi chung (chữa bài kiểm tra trên lớp) lại thường đưa ra lời giải đúng theo cách tư duy “áp đặt” của GV, mà không giúp phân tích mổ sẻ những cách tư duy chưa phù hợp của học sinh dẫn đến sự sai sót. Đánh giá lại khuôn vào một số kiểu loại bài toán, dạng bài văn, không nhằm bộc lộ năng lực suy nghĩ, sự trải nghiệm đa dạng, phong phú của người học, tức tập trung vào một số kiểu đề thi và chỉ để đáp ứng các kỳ thi, điều này làm cho quá trình dạy học bị bóp méo chỉ để phục vụ mục đích thi cử, nên mới xảy ra hiện tượng mọi học sinh “muốn thi đỗ phải đến lớp luyện thi” nhưng thi xong chẳng còn nhớ gì hết.

 Một trong những điểm yếu nữa là hiện nay, giáo viên sử dụng hầu như rất hạn chế các hình thức đánh giá mới, hiện đại, phần lớn những đánh giá GV đang sử dụng có tính truyền thống: dựa vào viết luận, làm các bàì tập như kiểm tra 15 phút, 1 tiết , và thông qua một số câu hỏi trắc nghiệm hoặc tự luận mà chính giáo viên cũng không rõ mình định đánh giá kỹ năng hay năng lực gì ở học sinh. Khi giáo viên chưa đa dạng hóa các kiểu đánh giá sẽ làm cho hoạt động học tập trở nên nhàm chán, sẽ khó phát triển các năng lực bậc cao ở người học (như năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tư duy sáng tạo ). Trong khi đó, yêu cầu của đổi mới kiểm tra đánh giá là phải áp dụng đa dạng các hình thức đánh giá: đánh giá bằng trắc nghiệm, bằng kiểm tra viết kiểu tự luận, vấn đáp đánh giá thông qua sản phẩm, qua hồ sơ học sinh, qua thuyết trình/trình bày, thông qua tương tác nhóm, thông qua các sản phẩm của nhóm , đánh giá bằng các tình huống bài tập, các hình thức tiểu luận, , thì giáo viên chưa làm được vì chưa được đào tạo.

 

doc43 trang | Chia sẻ: xuannguyen98 | Lượt xem: 535 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài thu hoạch Bồi dưỡng thường xuyên của cá nhân - Năm học 2015–2016 - Trần Đức Đông, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 trúc đề thi và hình thức thi tốt nghiệp phổ thông mà Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức hằng năm.
* Định hướng chỉ đạo về đổi mới kiểm tra, đánh giá
- Phải có sự hướng dẫn, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp quản lí giáo dục
- Phải có sự hỗ trợ của đồng nghiệp, nhất là giáo viên cùng bộ môn
* Cần lấy ý kiến xây dựng của học sinh để hoàn thiện phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá:
- Đổi mới kiểm tra, đánh giá phải đồng bộ với các khâu liên quan và nâng cao các điều kiện bảo đảm chất lượng dạy học
* Phát huy vai trò thúc đẩy của đổi mới kiểm tra, đánh giá đổi với đổi mới phương pháp dạy học
Phải đưa nội dung chỉ đạo đổi mới kiểm tra, đánh giá gắn với các phong trào khác trong nhà trường:
 - 	Định hướng và yêu cầu chung về đổi mới đánh giá trong chương trình giáo dục phổ thông
Đánh giá kết quả giáo dục của học sinh ở các môn học và hoạt động giáo dục trong mọi lớp và cuối cấp học nhằm xác định mức độ đạt đuợc mục tiêu giáo dục phổ thông, làm căn cứ để điều chỉnh quá trình giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, động viên, khuyến khích học sinh chăm học và tự tin trong học tập.
Đổi mới đánh giá phải gắn với việc thực hiện cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục" và gắn với phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực".
Thực hiện đúng quy định của quy chế đánh giá, xếp loại học sinh; đảm bảo tính khách quan, chính xác, công bằng.
Phải đảm bảo sự cân đối các yêu cầu kiểm tra về kiến thức (nhớ, hiểu, vận dụng), rèn luyện kĩ năng và yêu cầu về thái độ với học sinh và hướng dẫn học sinh biết tự đánh giá kết quả học tập, rèn luyện năng lực tự học và tư duy dộc lập.
Hoạt động 10: Tìm hiểu những cơ sở của việc đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Để đánh giá kết quả học tập của học sinh cần dựa vào mục tiêu môn học, mục đích học tập và mối quan hệ giữa mục tiêu của môn học, mục đích học tập và đánh giá kết quả học tập:
* Mục đích học tập là những điều học sinh cần có được sau khi đã học xong một đơn vị kiến thức, một quy tắc nào đó. 
- Hệ thống các kiến thức khoa học, gồm cả các phương pháp nhận thức.
- Hệ thống kĩ năng, kĩ xảo.
- Khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế.
- Thái độ, tình cảm đối với nghề nghiệp, đối với xã hội.
* Mục tiêu của môn học là những điểu học sinh cần phải đạt đuợc sau khi học xong môn học 
- Lĩnh hội tri thức của nhân loại nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức về tự nhìên và xã hội.
- Trang bị kiến thức để đáp ứng nhu cầu về thi tuyển, nghề nghiệp và nhu cầu cuộc sống.
- Thu thập những kinh nghiệm sáng tạo để có thể độc lập nghiên cứu và hoạt động sau này.
Hoạt động 11: Tìm hiểu những yêu cầu cần đạt được của việc kiểm tra, đánh giá.
Bốn trụ cột của một nền giáo dục là: Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình. Phương pháp và nội dung đánh giá còn cần phải hướng đến những mục tiêu đáp ứng cả 4 trụ cột trên, có thể xem đây là những định hướng thể hiện tính nhân bản của đánh giá học tập vì chúng hướng đến sự phát triển toàn diện của con người.
Hoạt động 12: Tìm hiểu việc triển khai kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trung học phổ thông.
* Quy trình đánh giá gồm những nội dung sau:
	- Trình bày vấn đề và mục đích đánh giá
	- Xác định đối tượng
	- Xác định các loại hình và kĩ thuật đánh giá
	- Khai thác và xử lí thông tin
* Quy trình biên soạn đề kiểm tra trong kiểm tra, đánh giá tổng kết
	- Xác định mục tiêu của đề kiểm tra
	- Xác định chuẩn kiến thức kĩ năng
	- Thiết lập ma trận 2 chiều	
Hoạt động 13: Tìm hiểu xu thế "đánh giá là để học".
- Tự đánh giá giúp cho giáo viên và học sinh đánh giá được mức độ năng lực nhận thức của học sinh. Đẩy mạnh tính hướng đích, tạo điều kiện để người học đạt được mục tiêu học tập.
	- Quá trình học tập được mở rộng thông qua việc sử dụng phương pháp tự đánh giá, kĩ thuật đánh giá trong việc đánh giá quá trình và kết quả học tập của mình. 
	- Bằng việc thực hành tự đánh giá, người học tham gia đánh giá chính bản thân họ và chia sẽ gánh nặng đánh giá đối với giáo viên.
	- Với việc thành công trong đánh giá bản thân, họ sẽ khẳng định ảnh hưởng tích cực của tự đánh giá đối với quá trình học tập của mình.
	- Tự đánh giá là một thành tố cơ bản là phuơng tiện để học sinh có trách nhiệm hơn đối với việc học tập của chính mình.
* Một số biện pháp quan trọng phát triển khả năng tự đánh giá mà giáo viên sử dụng có hiệu quả
- Chia sẽ các mục tiêu học tập của bài học với học sinh.
- Lập kế hoạch và khuyến khích phản ánh về việc học đã xảy ra và xảy ra như thế nào.
- Khuyến khích học sinh ước định công việc của chính mình.
- Cố gắng tạo ra bầu không khí thuận lợi bên trong lớp học sao cho việc mắc lỗi đuợc nhìn nhận như là cách thức cải thiện việc học chứ không phải là ghi nhận sự thất bại của cá nhân.
- Lồng ghép các mục tiêu học tập vào các cuộc thảo luận với học sinh.
- Hỗ trợ học sinh nhận thức được các bước tiếp theo của họ và chia sẻ các chuẩn môn học mà học sinh cần đạt.
- Có những hỗ trợ, động viên cần thiết và kịp thời giúp học sinh cải thiện việc học của mình.
 * Những yêu cầu sư phạm cần tuân thủ khi đánh giá kết quả học tập của học sinh
- Đánh giá phải xuất phát từ mục tiêu dạy học.
- Công cụ đánh giá phải đảm bảo mức độ chính xác nhất định.
- Đánh giá phải mang tính khách quan, toàn diện, có hệ thống và công khai.
- Đánh giá phải đảm bảo tính thuận tiện của việc sử dụng công cụ đánh giá.
* Những nguyên tắc khi đánh giá kết quả học tập của học sinh
- Khi đánh giá phải chọn mục tiêu đánh giá rõ ràng, các mục tiêu phải được biểu hiện dưới dạng những điều có thể quan sát được.
- Giáo viên cần phải biết rõ những hạn chế của từng công cụ đánh giá để sử dụng công cụ đánh giá một cách có hiệu quả.
- Khi đánh giá, GV phải biết đây chỉ là phuơng tiện để đi đến mục đích, chứ không phải là mục đích. 
- Đánh giá bao giờ cũng gắn với việc học tập của HS, nghĩa là trước tiên phải chú ý đến việc học tập của học sinh. Sau đó mới kích thích sự nổ lực học tập của học sinh, cuối cùng mới đánh giá bằng điểm số.
- Đánh giá bao giờ cũng đi kèm theo nhận xét để học sinh nhận biết những sai sót của mình về kiến thức, kĩ năng, phương pháp để học sinh nghiên cứu, trau dồi thêm kiến thức.
- Qua những lỗi mắc phải của học sinh, giáo viên cần rút kinh nghiệm để phát hiện ra những sai sót trong quá trình dạy và đánh giá của mình để thay đổi cách dạy sao cho phù hợp.
- Trong đánh giá, nên sử dụng nhiều phuơng pháp và hình thức khác nhau nhằm tăng độ tin cậy và chính xác.
- Lôi cuốn và khuyến khích học sinh tham gia vào quá trình đánh giá.
- Giáo viên phải thông báo rõ các loại hình câu hỏi để kiểm tra, đánh giá giúp HS định hướng khi trả lời.
- Phải dựa trên những cơ sở của phương pháp dạy học mà xem xét kết quả của một câu trả lời, một bài kiểm tra, kết hợp với chức năng chẩn đoán hoặc quyết định về mặt sư phạm.
- Trong các câu hỏi về mặt định lượng, giáo viên thông qua các câu hỏi yêu cầu học sinh giải thích bằng lời để xác định rõ nhận thức của học sinh.
- Phương pháp và cách thức tiến hành kiểm tra, đánh giá phải diễn ra trong không khí thoải mái, học sinh cảm thấy tự nguyện, không lo lắng hay sợ sệt
- Không nên đặt những câu hỏi mà bản thân giáo viên không thể trả lời một cách chắc chắn được.
- Nên luôn nghi ngờ về tính khách quan và mức độ chính xác của bộ câu hỏi để từ đó chúng ta có thể đưa ra kết quả tối ưu nhất.
B. VẬN DỤNG
Nội dung 1: Những vấn đề cơ bản về kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
1. Trình bày cách hiểu của bạn về kiểm tra, đánh giá, đo lường kết quả học tập. Chỉ ra các đặc trưng của đo lường kết quả học tập, minh họa những đặc trưng này trong thực tiễn kiểm tra, đánh giá kết quả học tập ở trường THCS
- Kiểm tra là quá trình thu thập thông tin làm cơ sở cho đánh giá.
- Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập xử lý thông tin về trình độ, khả năng người học thực hiện. Đo lường kết quả học tập là quá trình đối chiếu các thông tin thu được với tiêu chuẩn hoặc tiêu chí. Việc đo lường mang tính phức tạp, có một số đặc trưng như định tính và định lượng, trực tiếp và gián tiếp.
2. Phân tích vai trò của đánh giá kết quả học tập, minh họa bằng thực tiễn để chứng minh cho vai trò đã phân tích
a. Vai trò của kiểm tra đánh giá học sinh trong quá trình dạy và học 
Muốn đổi mới căn bản toàn diện chương trình, SGK phổ thông từ năm 2015 theo yêu cầu của Bộ GD&ĐT, thì “mắt xích” cần phải tập trung, nỗ lực nhiều nhất, đầu tư nhiều thời gian, trí tuệ, tiền bạc nhất chính là khâu đổi mới cách thức kiểm tra đánh giá học sinh. Trước hết chúng ta phải hiểu kiểm tra đánh là bộ phận không thể tách rời của quá trình dạy học bởi đối với người giáo viên, khi tiến hành quá trình dạy học phải xác định rõ mục tiêu của bài học, nội dung và phương pháp cũng như kỹ thuật tổ chức quá trình dạy học sao cho hiệu quả. Muốn biết có hiệu quả hay không, người giáo viên phải thu thập thông tin phản hồi từ học sinh để đánh giá và qua đó điều chỉnh phương pháp dạy, kỹ thuật dạy của mình và giúp học sinh điều chỉnh các phương pháp học. Như vậy, kiểm tra đánh giá là bộ phận không thể tách rời của quá trình dạy học và có thể nói kiểm tra đánh giá là động lực để thúc đẩy sự đổi mới quá trình dạy và học. 
 Đổi mới kiểm tra đánh giá sẽ là động lực thúc đẩy các quá trình khác như đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới cách thức tổ chức hoạt động dạy học, đổi mới quản lý. Nếu thực hiện được việc kiểm tra đánh giá hướng vào đánh giá quá trình, giúp phát triển năng lực người học, thì lúc đó quá trình dạy học trở nên tích cực hơn rất nhiều. Quá trình đó sẽ nhắm đến mục tiêu xa hơn, đó là nuôi dưỡng hứng thú học đường, tạo sự tự giác trong học tập và quan trọng hơn là gieo vào lòng học sinh sự tự tin, niềm tin “người khác làm được mình cũng sẽ làm được” Điều này vô cùng quan trọng để tạo ra mã số thành công của mỗi học sinh trong tương lai. 
 b. Tại sao người ta nói kiểm tra đánh giá rất quan trọng và kiểm tra đánh giá thế nào thì việc dạy học sẽ bị lái theo cái đó.
 * Nếu chúng ta chỉ tập trung đánh giá kết quả như một sản phẩm cuối cùng của quá trình dạy và học, thì HS chỉ tập trung vào những gì GV ôn và tập trung vào những trọng tâm GV nhấn mạnh, thậm chí những dạng bài tập GV cho trước HS chỉ việc thay số trong bài toán mẫu, bắt trước câu văn mẫu  để đạt được điểm số tối đa theo mong muốn của thầy/cô giáo. Và như vậy, kiểm tra đánh giá đã biến hình không còn theo đúng nghĩa của nó. Bởi khi xây dựng chương trình, người ta cần làm rõ triết lý kiểm tra đánh giá tức là xác định rõ mục tiêu của kiểm tra đánh giá là gì? Kiểm tra đánh giá xem HS có đạt mục tiêu học tập, giáo dục, có đạt được kết quả mong đợi theo chuẩn? Và sử dụng kết quả kiểm tra đó để làm gì? Làm thế nào để GV cải tiến nâng cao chất lượng quá trình dạy và học nếu không có đánh giá phản hồi từ HS? 
*Đánh giá kết quả học tập của học sinh là đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu đã đề ra sau một giai đoạn học tập. Nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình giáo dục:
- Thể hiện kết quả của quá trình GD và đào tạo: kết quả từng giai đoạn, từng học kỳ, từng năm học
- Tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường : giúp giáo viên trong việc đánh giá xếp loại năng lực học sinh, kịp thời có những quyết định khen thưởng – kỷ luật hợp lý.
- Giúp bản thân HS thấy được kết quả học tập của mình, đồng thời thúc đẩy họ học tập tiến bộ hơn.
* Để đánh giá được kết quả học tập, người giáo viên cần phải thu thập thông tin, đối chiếu, so sánh và đi đến kết luận phù hợp.
* Muốn quá trình thu thập thông tin có hiệu quả, giáo viên cần phải quan sát học sinh, đặt câu hỏi cho học sinh trả lời, cho đề học sinh làm bài. Để có thể đi đến kết luận chính xác, giáo viên cần phải đối chiếu câu trả lời hay bài làm của học sinh với các đáp án, thang điểm hợp lý.
3. Các chức năng của đánh giá kết quả học tập là gì? Đưa ra các minh họa cụ thể để chứng minh cho từng chức năng của đánh giá
- Chức năng xác nhận: Xác định mức độ của người học, làm căn cứ cho các quyết định phù hợp. Cung cấp những số liệu để thừa nhận hay bác bỏ sự hoàn thành hay chưa hoàn thành của khóa học
- Chức năng định hướng: Xác định điểm mạnh và điểm yếu của HS, giúp GV đưa ra các quyết định có liên quan đến các kế hoạch, nội dung, phương pháp, sắp xếp nhóm học tập, bồi dưỡng năng khiếu.
- Chức năng hỗ trợ: Quá trình dạy học là 1 tiến trình dài. Học sinh thường khó bảo toàn toàn bộ kiến thức. Vì vậy, kiểm tra đánh giá góp phần điều chỉnh, hỗ trợ, giúp cho quá trình học tập có hiệu quả.
4. Nhận xét việc thực hiện các chức năng của đánh giá kết quả học tập của học sinh trong thực tiễn ở nhà trường mà bạn được biết.
Trong nhà trường THCS hiện nay, việc tiến hành đánh giá kết quả học tập của học sinh diễn ra một cách đồng bộ, nhịp nhàng và thường xuyên, đảm bảo thể hiện đầy đủ các chức năng ở các loại hình kiểm tra 
- Kiểm tra miệng ở đầu mỗi tiết học 
- Kiểm tra 15 phút
- Kiểm tra 1 tiết ở cuối chương, hoặc cuối 1 giai đoạn
- Kiểm tra giữa học kỳ
- Kiểm tra học kỳ
5. Phân tích các yêu cầu đối với kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh THCS
- Đảm bảo sự phù hợp của phương pháp kiểm tra đánh giá với các mục tiêu đã xác định
- Đảm bảo tính giá trị, những thông tin thu được phải là những bằng chứng để đi đến những kết luận phù hợp
- Đảm bảo tính tin cậy: phản ánh đúng kết quả học tập của người học
- Đảm bảo tính công bằng: tạo điều kiện cho tất cả học sinh có cơ hội như nhau
6. Phân tích thực trạng và yếu điểm của kiểm tra đánh giá học sinh tại các trường phổ thông hiện nay 
Điểm yếu nhất của kiểm tra đánh giá giáo dục phổ thông hiện nay là chưa xác định rõ triết lý đánh giá: đánh giá để làm gì, tại sao phải đánh giá, đánh giá nhằm thúc đẩy, hình thành khả năng gi ở học sinh?... 
Đánh giá trước hết phải vì sự tiến bộ của học sinh, giúp học sinh nhận ra mình đang ở đâu trên con đường đạt đến mục tiêu bài học/chuẩn kiến thức, kỹ năng Đánh giá không làm học sinh lo sợ, bị thương tổn, mất tự tin. Đánh giá phải diễn ra trong suốt quá trình dạy học, giúp học sinh liên tục được phản hồi để biết mình mắc lỗi, thiếu hoặc yếu ở điểm nào để cả giáo viên và học sinh cùng điều chỉnh hoạt động dạy và học. Đánh giá phải tạo ra sự phát triển, phải nâng cao năng lực của người học, tức là giúp các em hình thành khả năng tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau để phát triển năng lực tự học. Hiện nay rất nhiều giáo viên, các cán bộ quản lý giáo dục chưa thấu hiểu triết lý đánh giá, chủ yếu mới chỉ tập trung vào đánh giá kết quả học tập, để xếp loại học sinhGiáo viên cũng gặp rất nhiều khó khăn khi phải đánh giá các hoạt động giáo dục (không biết đánh giá các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, đánh giá đạo đức, giá trị sống, kỹ năng sống như thế nào). Nếu đánh giá chỉ là kiểm tra sự học thuộc bài (ghi nhớ), làm lại theo các kiểu, dạng bài mẫu thầy đã cho sẽ triệt tiêu sự phát triển, sự nỗ lực vươn lên ở người học. 
 	Điểm yếu khác trong đánh giá học sinh hiện tại là đánh giá (chấm điểm) mà không có sự phản hồi cho học sinh. GV chấm bài kiểm tra, thường chỉ cho điểm hoặc chỉ phê “sai”, “làm lại” hay chỉ viết ký hiệu sai hay ký hiệu đúng chứ chưa giải thích được rõ cho học sinh biết tại sao sai, sai như thế nào. Một số GV chấm bài có sự phản hồi nhưng phản hồi không đủ, phản hồi tiêu cực, không mang tính xây dựng (Vi dụ, GV phê: làm sai, làm ẩu, không hiểulàm học sinh mất niềm tin, không có động lực để sửa lỗi), làm cho người học chán nản Khi phản hồi của GV đối với bài làm của HS mang sắc thái xúc cảm âm tính, tiêu cực, có thể làm học sinh xấu hổ, mất tự tin. Bên cạnh đó, nếu GV có phản hồi chung (chữa bài kiểm tra trên lớp) lại thường đưa ra lời giải đúng theo cách tư duy “áp đặt” của GV, mà không giúp phân tích mổ sẻ những cách tư duy chưa phù hợp của học sinh dẫn đến sự sai sót. Đánh giá lại khuôn vào một số kiểu loại bài toán, dạng bài văn, không nhằm bộc lộ năng lực suy nghĩ, sự trải nghiệm đa dạng, phong phú của người học, tức tập trung vào một số kiểu đề thi và chỉ để đáp ứng các kỳ thi, điều này làm cho quá trình dạy học bị bóp méo chỉ để phục vụ mục đích thi cử, nên mới xảy ra hiện tượng mọi học sinh “muốn thi đỗ phải đến lớp luyện thi” nhưng thi xong chẳng còn nhớ gì hết. 
 	Một trong những điểm yếu nữa là hiện nay, giáo viên sử dụng hầu như rất hạn chế các hình thức đánh giá mới, hiện đại, phần lớn những đánh giá GV đang sử dụng có tính truyền thống: dựa vào viết luận, làm các bàì tập như kiểm tra 15 phút, 1 tiết , và thông qua một số câu hỏi trắc nghiệm hoặc tự luận mà chính giáo viên cũng không rõ mình định đánh giá kỹ năng hay năng lực gì ở học sinh. Khi giáo viên chưa đa dạng hóa các kiểu đánh giá sẽ làm cho hoạt động học tập trở nên nhàm chán, sẽ khó phát triển các năng lực bậc cao ở người học (như năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tư duy sáng tạo). Trong khi đó, yêu cầu của đổi mới kiểm tra đánh giá là phải áp dụng đa dạng các hình thức đánh giá: đánh giá bằng trắc nghiệm, bằng kiểm tra viết kiểu tự luận, vấn đáp đánh giá thông qua sản phẩm, qua hồ sơ học sinh, qua thuyết trình/trình bày, thông qua tương tác nhóm, thông qua các sản phẩm của nhóm, đánh giá bằng các tình huống bài tập, các hình thức tiểu luận, , thì giáo viên chưa làm được vì chưa được đào tạo. 
7. Những khó khăn hay bất cập trong kiểm tra đánh giá học sinh hiện nay nên hiểu thế nào để tìm cách khắc phục 
Thực tế việc triển khai ứng dụng đổi mới kiểm tra đánh giá ở các trường phổ thông còn gặp rất nhiều khó khăn. Bởi từ trước đến nay GV thường kiểm tra đánh giá dựa trên những kinh nghiệm, soạn câu hỏi kiểm tra miệng, hay bài kiểm tra 15 phút, bài thi 1 tiết hoặc học kỳ phần lớn dựa trên kinh nghiệm. Giáo viên thường ra đề kiểm tra, đề thi dựa trên theo lối mòn (kinh nghiệm, thói quen) mà ít khi để ý đến cơ sở khoa học, tính quy chuẩn của việc thiết kế đề thi hay đề kiểm tra. Các đề thi/kiểm tra chủ yếu là nhằm đánh giá việc nhớ, hiểu kiến thức, kỹ năng thực hành, mà ít chú ý đánh giá khả năng học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống trong thực tiễn đời sống, ít chú ý đến việc đánh giá năng lực người học theo chuẩn mong đợi. 
Giáo viên chọn kiểu câu hỏi, cách thức ra đề thi đánh giá học sinh chủ yếu do bắt trước những đề mẫu, theo “sách” mà ít khi để ý đến mục tiêu đo lường, đánh giá, ít khi suy nghĩ về cơ sở khoa học của việc ra đề thi hay đề kiểm tra là nhằm kiểm tra kiến thức, kỹ năng gì, đặc biệt là kiểm tra năng lực gì trong đó, họ không định hình rõ ràng. Chính vậy mà GV sưu tầm một số đề cảm thấy “hay” trong sách GK hay sách tham khảo, trên cơ sở đó bắt chước cách làm. Còn các kiến thức được tập huấn về thiết kế đề thi như thế nào cho khoa học, nhiều lúc còn mới lạ với họ. GV không đủ thời gian để làm những cái đó, mặt khác GV cũng không được các cấp quản lý như sở, phòng, BGH, tổ bộ môn hỗ trợ về thời gian, kinh phí, cũng như bồi dưỡng cho GV các kỹ thuật để xây dựng các đề kiểm tra, đề thi... theo một quy trình, dựa trên cơ sở khoa học đo lường và đánh giá. 
 Điểm nữa là, sau mỗi bài kiểm tra/ kỳ thi, giáo viên thường chỉ quan tâm đến điểm số của học sinh để lên bảng điểm, xếp loại, đánh giá, chứ không nghĩ rằng cần phân tích đánh giá chất lượng các đề kiểm tra/thi để rút kinh nghiệm giúp phát hiện những thiếu hụt gì ở học sinh, để điều chỉnh hoạt động dạy và học. Nhiều giáo viên chỉ quan tâm, kiểm tra đánh giá để có điểm, thực hiện yêu cầu theo quy chếmà quên rằng kiểm tra đánh giá còn có nhiều chức năng khác 
8. Đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả đánh giá kết quả học tập của học sinh THCS
Muốn nâng cao hiệu quả đánh giá kết quả học tập của học sinh THCS, đánh giá phải tạo ra động lực để đối tượng được đánh giá vươn lên. Do vậy, đánh giá phải linh hoạt, mềm dẻo có tác dụng khích lệ, động viên. Tiêu chí đánh giá cũng như kết quả đánh giá phải được công bố công khai và kịp thời cho học sinh.
Nội dung 2: Các phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh 
1. Bạn hãy quan sát thực tiễn việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh trong nhà trường và nhận xét việc thực hiện các yêu cầu của giáo viên khi tiến hành phương pháp kiểm tra viết dạng tự luận. Hã

File đính kèm:

  • docBai_thu_hoach_Boi_duong_thuong_xuyen_THCS_2015_2016_tron_bo.doc