Bài thu hoạc Bồi dưỡng thường xuyên - Module THCS 1: Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THCS - Năm học 2019-2020

* Sự xuất hiện của tuyến sinh dục (hiện tượng dậy thì)

- Sự trưởng thành về mặt sinh dục là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển cơ thể của lứa tuổi thiếu niên.

+ Dấu hiệu dậy thì ở em gái là sự xuất hiện kinh nguyệt, sự phát triển tuyến vú. Ở em trai là hiện tượng “vỡ giọng”, sự tăng lên của thể tích tinh hoàn và bắt đầu có hiện tượng “mộng tinh”. Tuổi dậy thì ở các em gái Việt Nam vào khoảng 12 – 14 tuổi, ở các em trai bắt đầu và kết thúc chậm hơn các em gái khoảng từ 1,5 đến 2 năm.

Dấu diệu phụ báo tuổi dậy thì có sự khác nhau giữa các em trai và gái. Các em trai cao rất nhanh, giọng nói ồm ồm, vai to, có ria mép Các em gái cũng lớn nhanh, thân hình duyên dáng, da dẻ hồng hào, tóc mượt mà, môi đỏ, giọng nói trong trẻo

Sự xuất hiện tuổi dậy thì phụ thuộc yếu tố khí hậu, thể chất, dân tộc, chế độ sinh hoạt (vật chất, tinh thần ), lối sống Tuy nhiên, hiện nay do gia tốc phát triển thể chất và phát dục nên tuổi dậy thì có thể đến sớm hơn từ 1,5 – 2 năm.

+ Đến 15 – 16 tuồi, giai đoạn dậy thì kết thúc. Các em có thể sinh sản được nhưng các em chưa trưởng thành về mặt cơ thể, đặc biệt về mặt tâm lý và xã hội. Bởi vậy lứa tuổi học sinh THCS không được coi là có sự cân đối giữa sự phát dục, giữa bản năng tương ứng, những tình cảm và ham muốn tình dục với mức trưởng thành về xã hội và tâm lý. Vì thế, ngưởi lớn (cha mẹ, giáo viên, các nhà giáo dục ) cần hướng dẫn, trợ giúp một cách khéo léo, tế nhị để các em hiểu đúng vấn đề, biết xây dựng mối quan hệ đúng đắn với bạn khác giới và không băn khoăn lo lắng khi bước vào tuổi dậy thì.

 

docx12 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 420 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài thu hoạc Bồi dưỡng thường xuyên - Module THCS 1: Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THCS - Năm học 2019-2020, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngưởi lớn cả về nội dung lẫn hình thức. Trong quan hệ với bạn, các em rất quan lâm đến việc đánh giá những phẩm chất nhân cách của ngưởi bạn. Các em cũng rất nhạy cảm khi quan sát, đánh giá ngưởi lớn, đặc biệt đổi với cha mẹ, giáo viên. Sự đánh giá này thưởng được thể hiện một cách kín đáo, bí mật, khắt khe. Tuy nhiên qua sự đánh giá ngưởi khác, học sinh THCS có thể tìm đuợc hình mẫu lí tương để phấn đấu, noi theo.
Động lực thúc đẩy sự phát triển tự ý thức của học sinh THCS: là nhu cầu về vị trí của các em trong gia đình, xã hội, nhu cầu muốn chiếm được vị trí trong nhóm bạn, muốn được sự tôn trọng, yêu mến của bạn bè.
Tuy nhiên tự đánh giá của học sinh THCS còn có nhiều hạn chế:
- Các em nhận thức và đánh giá được các mẫu hình nhân cách trong xã hội nhưng chưa biết rèn luyện để có được nhân cách theo mẫu hình đó.
- Học sinh THCS có thái độ đánh giá hiện thực khách quan rất thẳng thắn, mạnh mẽ, chân thành và dứt khoát nhưng chưa biết phân tích mặt phức tạp của đởi sống, mặt phức tạp trong quan hệ xã hội.
Trong quá trình cùng hoạt động với bạn bè, với tập thể, sự đánh giá của ngưởi khác cùng với khả năng thực sẽ giúp học sinh THCS thấy đuợc sự chưa hoàn thiện của mình. Điều này giúp các em phấn đẩu, rèn luyện để tự phát triển bản thân theo mẫu hình đã lựa chọn.
3. Sự phát triển nhận thức đạo đức và hành vi ứng xử của học sinh THCS
Sự hình thành nhận thức đạo đức nói chung và lĩnh hội tiêu chuẩn của hành vi đạo đức nói riêng là đặc điểm tâm lí quan trọng trong lứa tuổi thiếu niên. Tuổi học sinh THCS là tuổi hình thành thế giới quan, lí tưởng, niềm tin đạo đức, những phán đoán giá trị...
Ở tuổi học sinh THCS, do sự mở rộng các quan hệ xã hội, do sự phát triển của tự ý thức, đạo đức của các em đuợc phát triển mạnh. Do trí tuệ và tự ý thức phát triển, học sinh THCS đã biết sử dụng các nguyên tắc riêng, các quan điểm, sáng kiến riêng để chỉ đạo hành vi. Điều này làm cho học sinh THCS khác hẳn học sinh tiễu học (học sinh nhỏ chủ yếu hành động theo chỉ dẫn trục tiếp của ngưởi lớn). Trong sự hình thành và phát triển đạo đức học sinh THCS thì tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức, nghị lực... ở các em thay đổi nhiều so với trẻ nhỏ.
Cùng với sự phát triển của tự ý thức, với nguyện vọng vươn lên làm ngưởi lớn, ý chí của học sinh THCS có những thay đổi. Các phẩm chất ý chí của các em được phát triển mạnh hơn học sinh tiểu học (tính độc lập, sáng tạo, kiên quyết dũng cảm...). Học sinh THCS thưởng coi việc giáo dục ý chí, tự tu duõng là một nhiệm vụ quan trọng của bản thân, đặc biệt với các em nam. Thiếu niên đánh giá cao các phẩm chất ý chí như kiên cưởng, tinh thần vượt khó, kiên trì... Tuy nhiên, không phải lúc nào các em cũng hiểu đứng các phẩm chất ý chí. Một sổ em đôi khi tỏ ra thiếu bình tĩnh, thô lỗ trong ứng xử với ngưởi lớn, với bạn bè (thể hiện trong hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ...). Bởi vậy ngưởi lớn cần giúp các em hiểu rõ những phẩm chất ý chí và định hướng rèn luyện, phấn đẩu theo những phản chất ý chí tích cực để trở thành nhân cách trong xã hội.
Trong khi giáo dục đạo đức cho học sinh THCS, cần chú ý đến sự hình thành những cơ sở đạo đức ở tuổi thiếu niên. Nhìn chung trình độ nhận thức đạo đức của học sinh THCS là cao. Các em hiểu rõ những khái niệm đạo đức như tính trung thực, kiên trì, dũng cảm, tính độc lập...
Tuy nhiên, có một sổ kinh nghiệm và khái niệm đạo đức của học sinh THCS được hình thành tự phát ngoài sự hướng dẫn của giáo dục (do hiểu không đứng về các sự kiện trong sách báo, phim ảnh hay xem sách báo, phim ảnh không phù họp với lứa tuổi, hoặc do ảnh hương của bạn bè xấu, nghiện games, các trò chơi bạo lực...). Do đó các em có thể có những ngộ nhận, hiểu biết phiến diện, không chính xác về một số khái niệm đạo đức, những phẩm chất riêng của cá nhân, vì thế các em đã phát triển những nét tiêu cực trong tính cách. Bởi vậy, cha mẹ, giáo viên và những ngưởi làm công tác giáo dục cần lưu ý điều này trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THCS.
Câu 3. Những đặc điểm thể chất và tâm lý chứng minh lứa tuổi học sinh THCS là thởi kỳ chuyển từ trẻ con sang ngưởi lớn.
1. Sự phát triển cơ thể:
Bước vào tuổi thiếu niên có sự cải tổ lại rất mạnh mẽ và sâu sắc về cơ thể, về sinh lí. Trong suốt quá trình trưởng thành và phát triển cơ thể của cá nhân, đây là giai đoạn phát triển nhanh thứ hai, sau giai đoạn sơ sinh. Sự cải tổ về mặt giải phẫu sinh lí của thiếu niên có đặc điểm là: tốc độ phát triển cơ thể nhanh, mạnh mẽ, quyết liệt nhưng không cân đối. Đồng thởi xuất hiện yếu tố mới mà ở lứa tuổi trưỏc chưa có (sự phát dục). Tác nhân quan trọng ảnh huớng đến sự cải tổ thể chất - sinh lí của tuổi thiếu niên là các hormone, chế độ lao động và dinh dưỡng.
Sự phát triển của chiều cao và trọng lượng:
Chiều cao của các em tăng rất nhanh: trung bình một năm, các em gái cao thêm 5 - 6 cm, các em trai cao thêm 7 - 8 cm. Trọng lượng của các em tăng từ 2 - 5kg /năm, sự tăng vòng ngực của thiếu niên trai và gái...
Sự gia tốc phát triển về thể chất của trẻ em biểu hiện đặc biệt trong lứa tuổi thiếu niên. Trong khoảng 20 - 30 năm gần đây, thiếu niên phát triển với nhịp độ nhanh chóng, các em trở nên cao, to, khoẻ mạnh hơn những thiếu niên cùng tuổi ở 30 năm trước. Theo kết quả đo đạc của chương trình KHXH-04-04 (năm 1996), học sinh thế hệ hiện tại cao hơn thế hệ 1975 trung bình 9 cm ở nam và 7,7cm ở nữ; về cân nặng tăng 6,2kg ở nam và 3,3kg ở nữ.
Chiều cao trung bình của thiếu niên 15 tuổi Việt Nam:
- Năm 1975: nam 146,2cm; nữ: 143,4cm.
- Năm 1906: nam: 156,33cm; nữ: 151,56cm.
Sự phát triển của hệ xương:
Hệ xương đang diễn ra quá trình cột hoá về hình thái, làm cho thiếu niên lớn lên rất nhanh, xương sọ phần mặt phát triển mạnh. Ở các em gái đang diễn ra quá trình hoàn thiện các mảnh của xương chậu (chứa đựng chức năng làm mẹ sau này) và kết thúc vào tuổi 30-21. Bởi vậy, cần tránh cho các em đi giày, guốc cao gót, tránh nhảy quá cao để khói ảnh hưởng đến chức năng sinh sản của các em.
Từ 12 đến 15 tuổi, phần tăng thêm của xương sống phát triển chậm hơn so với nhịp độ lớn lên về chiều cao của thân thể. Dưới 14 tuổi vẫn còn có các đốt sựn hoàn toàn giữa các đốt xương sống, do đó cột sống dễ bị cong, bị vẹo khi đứng, ngồi, vận động, mang vác vật nặng... không đúng tư thế (Sự hỏng tư thế diễn ra nhiều nhất ở tuổi 11 đến 15). Do đó, cần chú ý nhắc nhở giúp các em tránh những sai lệch về cột sống.
Khuôn mặt thiếu niên cũng thay đổi do sự phát triển nhanh chóng phần phía trước của hộp xương sọ. Điều này khiến cho tỉ lệ chung ở thân thể thiếu niên thay đổi so với trẻ nhỏ và đã xấp xỉ tỉ lệ đặc trưng cho ngưởi lớn. Đến cuối tuổi thiếu niên, sự phát triển thể chất đạt mức tối đa.
Sự phát triển của hệ cơ:
- Sự tăng khối lượng các bắp thịt và lực của cơ bắp diễn ra mạnh nhất vào cuối thởi kì dậy thì. Cuối tuổi thiếu niên, cơ thể của các em đã rất khoẻ mạnh (các em trai thích đọ tay, đá bóng để thể hiện sức mạnh của cơ bắp...). Tuy nhiên, cơ thể thiếu niên chóng mệt và các em không làm việc lâu bền như ngưởi lớn. Nên chú ý điều đó khi tổ chức lao động, luyện tập thể thao, hoạt động ngoại khoá cho các em.
	- Sự phát triển hệ cơ của thiếu niên trai và gái diễn ra theo hai kiểu khác nhau, đặc trưng cho mỗi giới: Các em trai cao nhanh, vai rộng, cơ vai, bắp tay, bắp chân phát triển mạnh, tạo nên sự mạnh mẽ của nam giới sau này. Các em gái tròn trặn dần, ngực nở, xương chậu rộng... tạo nên sự mềm mại, duyên dáng của thiếu nữ. (Song quá trình này kết thúc ngoài giới hạn của tuổi thiếu niên).
Sự phát triển cơ thể của thiếu niên không cân đối:
Hệ cơ phát triển chậm hơn hệ xương. Trong sự phát triển của hệ xương thì xương tay, xương chân phát triển mạnh nhưng xương lồng ngực phát triển chậm hơn. Sự phát triển giữa xương bàn tay và các xương đốt ngón tay không đồng đều. Sự cải tổ bộ máy vận động làm mất đi sự nhịp nhàng của các cử động, làm thiếu niên lúng túng, vụng về, vận động thiếu hài hoà, nảy sinh ở các em cảm xúc không thoải mái, thiếu tự tin.
Hệ tim mạch phát triển cũng không cân đối. Thể tích tim tăng nhanh, tim to hơn, hoạt động mạnh hơn, trong khi đưởng kính của các mạch máu lại phát triển chậm hơn dẫn đến sự rối loạn tạm thởi của tuần hoàn máu. Do đó thiếu niên thưởng bị mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu, huyết áp tăng... khi phải làm việc quá sức hoặc làm việc trong một thởi gian kéo dài.
Sự phát triển của hệ thần kinh không cân đối. Sự phát triển của hệ thống tín hiệu thứ nhất và tín hiệu thứ hai, giữa hưng phấn và ức chế cũng diễn ra mất cân đối (Quá trình hưng phấn mạnh hơn ức chế).
Trong lứa tuổi thiếu niên có sự thay đổi đột ngột bên trong cơ thể do những thay đổi trong hệ thống các tuyến nội tiết đang hoạt động tích cực (đặc biệt những hoocmon của tuyến giáp trạng, tuyến sinh dục). Do hệ thống tuyến nội tiết và hệ thần kinh có liên quan với nhau về chức năng nên một mặt nghị lực của thiếu niên tăng mạnh mẽ, mặt khác các em lại nhạy cảm cao với các động tác bệnh, vì vậy, làm việc quá sức, sự căng thẳng thần kinh kéo dài, sự xúc động và những cảm xúc tiêu cực có thể là nguyên nhân gây rối loạn nội tiết và rối loạn chức năng của hệ thần kinh.
Sự xuất hiện của tuyến smh dục (hiện tượng dậy thì):
Sự trưởng thành về mặt sinh dục là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển cơ thể ở lứa tuổi thiếu niên.
Dấu hiệu dậy thì ở em gái là sự xuất hiện kinh nguyệt sự phát triển của tuyến vú (vú và núm vú nhô lên, quầng vú rộng) ở em trai là hiện tượng “vỡ giọng", sự tăng lên của thể tích tinh hoàn và bắt đầu có hiện tượng “mộng tinh". Tuổi dậy thì ở các em gái Việt Nam vào khoảng từ 12 đến 14 tuổi, ở các em trai bắt đầu và kết thúc chậm hơn các em gái khoảng từ 1,5 đến 2 năm.
Dấu hiệu phụ báo hiệu tuổi dậy thì có sự khác nhau giữa các em trai và gái. Các em trai cao rất nhanh, giọng nói ồm ồm, vai to, có ria mép... Các em gái cũng lớn nhanh, thân hình duyên dáng, da dẻ hồng hào, tóc mượt mà, môi đỏ, giọng nói trong trẻo...
Sự xuất hiện tuổi dậy thì phụ thuộc yếu tố khí hậu, thể chất, dân tộc, chế độ sinh hoạt (vật chất, tinh thần), lối sống... Tuy nhiên, hiện nay do gia tốc phát triển thể chất và phát dục nên tuổi dậy thì có thể đến sớm hơn từ 1,5 đến 2 năm.
Đến 15 - 16 tuổi, giai đoạn dậy thì kết thúc. Các em có thể sinh sản được nhưng các em chưa trưởng thành về mặt cơ thể, đặc biệt về mặt tâm lí và xã hội. Bởi vậy lứa tuổi học sinh THCS được coi là không có sự cân đối giữa việc phát dục, giữa bản năng tương ứng, những tình cảm và ham muốn tình dục với mức độ trưởng thành về xã hội và tâm lí. Vì thế, ngưởi lớn (cha mẹ, giáo viên, các nhà giáo dục...) cần hướng dẫn, trợ giúp một cách khéo léo, tế nhị để các em hiểu đúng vấn đề, biết xây dựng mối quan hệ đúng đắn với bạn khác giới... và không băn khoăn lo lắng khi bước vào tuổi dậy thì.
Sự phát dục và những biến đổi trong sự phát triển thể chất của thiếu niên có ý nghĩa quan trọng đối với sự xuất hiện những cấu tạo tâm lí mới. Những biến đổi rõ rệt về mặt giải phẫu sinh lí đối với thiếu niên đã làm cho các em trở thành ngưởi lớn một cách khách quan và làm nảy sinh cảm giác về tính ngưởi lớn của bản thân các em. Sự phát dục làm cho thiếu niên xuất hiện những cảm giác, tình cảm và rung cảm mới mang tính chất giới tính, các em quan tâm nhiều hơn đến ngưởi khác giới.
Tuy nhiên, những ảnh hưởng trên đến sự phát triển tâm lí của học sinh THCS còn phụ thuộc nhiều yếu tố: kinh nghiệm sống, đặc điểm giao tiếp của thiếu niên, những hoàn cảnh riêng trong đởi sống và điều kiện giáo dục (Giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường) đối với các em.
Đặc điểm về hoạt động của não và thần kinh cấp cao của thiếu niên:
Ở tuổi thiếu niên, não có sự phát triển mới giúp các chức năng trí tuệ phát triển mạnh mẽ. Các vùng thái dương, vùng đỉnh, vùng trán, các tua nhánh phát triển rất nhanh, tạo điều kiện nối liền các vùng này với vỏ não, các nơron thần kinh đuợc liên kết với nhau, hình thành các chức năng trí tuệ.
Những quá trình hưng phấn chiếm ưu thế rõ rệt, ức chế phân biệt bị kém đi, hưng phấn phát triển mạnh, lan tỏa cả vùng dưới vỏ. Vì vậy, thiếu niên dễ bị “hậu đậu", có nhiều động tác phụ của đầu, chân, tay trong khi vận động hay tham gia các hoạt động. Do các quá trình hưng phấn mạnh, chiếm ưu thế và các quá trình ức chế có điều kiện bị suy giảm nên thiếu niên không làm chủ được cảm xúc, không kiềm chế được xúc động mạnh. Bởi vậy, học sinh THCS dễ nổi nóng, có phản ứng vô cớ, dễ bị kích động, mất bình tĩnh... nên dễ vi phạm kỉ luật. Ở thiếu niên có sự mất cân đối giữa hệ thống tín hiệu thứ nhất và hệ thống tín hiệu thứ hai. Do đó, ngôn ngữ của các em cũng thay đổi: nói chậm hơn, ngập ngừng, nói “nhát gừng"... Tuy nhiên, sự mất cân bằng trên chỉ có tính chất tạm thởi. Khoảng 15 tuổi trở đi thì vai trò của hệ thống tín hiệu thứ hai tăng, sự ức chế trong được tăng cưởng, quá trình hưng phấn và ức chế cân đối hơn. Nhở vậy, các em sẽ bước vào tuổi thanh niên với sự hài hoà của hai hệ thống tín hiệu, của hưng phấn và ức chế ở vỏ não và dưới vỏ.
Tóm lại, cơ thể thiếu niên đang chịu một phụ tải đáng kể do sự phát triển nhảy vọt về thể chất trong sự cải tổ giải phẫu sinh lí cơ thể do hoạt động mạnh của các tuyến nội tiết dẫn tới hiện tượng dậy thì ở thiếu niên. Những mâu thuẫn tạm thởi chỉ diễn ra trong quá trình cải tổ về mặt giải phẫu sinh lí trong một thởi gian ngắn. Đến cuối tuổi thiếu niên, sự phát triển về thể chất sẽ êm ả hơn.
2. Điều kiện xã hội:
Vị thế của thiếu niên trong xã hội: Thiếu niên có những quyền hạn và trách nhiệm xã hội lớn hơn so với học sinh tiểu học: 14 tuổi các em được làm chứng minh thư, cùng với học tập, học sinh THCS tham gia nhiều hoạt động xã hội phong phú: giáo dục các em nhỏ; giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng; tham gia các hoạt động tập thể chống tệ nạn xã hội; làm tình nguyện viên; vệ sinh trưởng lớp, đưởng phố... Điều này giúp cho học sinh THCS mở rộng các quan hệ xã hội, kinh nghiệm sống thêm phong phú, ý thức xã hội được nâng cao.
Vị ihế của thiếu niên trong gia đình: Thiếu niên được thừa nhận là một thành viên tích cực trong gia đình, được giao một số nhiệm vụ như: chăm sóc em nhỏ, nấu ăn, dọn dẹp... Ở những gia đình khó khăn, các em đã tham gia lao động thực sự, góp phần thu nhập cho gia đình. học sinh THCS được cha mẹ trao đổi, bàn bạc một số công việc trong nhà. Các em quan tâm đến việc xây dựng và bảo vệ uy tín gia đình. Nhìn chung, các em ý thức được vị thế mới của mình trong gia đình và thực hiện một cách tích cục. Tuy nhiên, đa số thiếu niên vẫn còn đi học, các em vẫn phụ thuộc vào cha mẹ về kinh tế, giáo dục... Điều này tạo ra hoàn cảnh có tính hai mặt trong đởi sống của thiếu niên trong gia đình.
Vị thế của thiếu niên trong nhà trưởmg THCS: Vị thế của học sinh THCS hơn hẳn vị thế của học sinh tiểu học. Học sinh THCS ít phụ thuộc vào giáo viên hơn so với nhi đồng. Các em học tập theo phân môn. Mỗi môn học do một giáo viên đảm nhiệm. Mỗi giáo viên có yêu cầu khác nhau đối với học sinh, có trình độ, tay nghề, phẩm chất sư phạm và có phong cách giảng dạy riêng đòi hỏi học sinh THCS phải thích ứng với những yêu cầu mới của các giáo viên. Sự thay đổi này có thể tạo ra những khó khăn nhất định cho học sinh nhưng lại là yếu tố khách quan để các em dần có được phương thức nhận thức ngưởi khác.
Tóm lại, sự thay đổi điều kiện sống, điều kiện hoạt động của thiếu niên ở trong gia đình, nhà trường, xã hội mà vị trí của thiếu niên được nâng lên. Thiếu niên ý thức được sự thay đổi và tích cực hoạt động để phù hợp với sự thay đổi đó. Vì thế đặc điểm tâm lí, nhân cách của học sinh THCS hình thành và phát triển phong phú hơn so với các lứa tuổi trước.
3. Hoạt động giao tiếp:
Giao tiếp là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi thiếu niên. Giao tiếpp của thiếu niên là một hoạt động đặc biệt. Qua đó, các em thực hiện ý muốn làm ngưởi lớn, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức- xã hội của các mối quan hệ. Lứa tuổi thiếu niên có những thay đổi rất cơ bản trong giao tiếp của các em với ngưởi lớn và với bạn ngang hàng.
Nhu cầu giao tiếp với bạn ngang hàng phát triển mạnh. Giao tiếp với bạn đã trở thành nhu cầu cấp thiết vì các em có xu hướng muổn tách khói ngưởi lớn do trong quan hệ với ngưởi lớn, các em ít được bình đẳng. Đây là lứa tuổi đang khao khát tìm một vị trí ở bạn bè, ở tập thể, muốn đuợc sự công nhận của bạn bè. Các em giao tiếp với bạn để khẳng định mình, để trao đổi những nhận xét, tình cảm, ý nghĩ, tâm tư, khó khăn của mình trong quan hệ với bạn, với ngưởi lớn... Các em mong muốn có người bạn thân để chia sẽ, giãi bày tâm sự, vương mắc, băn khoăn. Nhu cầu có bạn thân, bạn tin cậy ngày càng trở nên cầp bách với thiếu niên, đặc biệt với các em cuối cấp THCS. Ngưởi bạn thân được các em coi như “cái tôi thứ hai của mình".
Trong cuộc sống hằng ngày, các em không thể không có bạn. Các em có những rung cảm nặng nề nếu quan hệ với bạn bị nghèo nàn hay các em mất bạn. Sự tẩy chay của bạn bè, của tập thể có thể thúc đẩy các em sửa chữa để được hòa nhập với bạn, cũng có thể làm các em tìm kiếm và gia nhâp nhóm bạn ngoài trường, hoặc nảy sinh các hành vi tiêu cục như phá phách, gây hấn... Ngưởi lớn cần lưu ý điểu này vì khi học sinh xa rờ tập thể, kết bạn thành nhóm tự phát ngoài trưởng học có thể dẫn tới hậu quả đáng tiếcc. Nhiều học sinh THCS bị bạn xấu lôi kéo, quên việc học hành, ân chơi hoang phí, lừa dối cha mẹ và giáo viên. Những em này thưởng hiểu lầm tinh thần tự lực, quyền tụ do để thỏả mãn lòng tự ái, sống buông thả ngoài sự kiểm soát của cha mẹ, thầy cô giáo. Tù những ảnh hưởng xấu nhỏ đến những ảnh hưởng xấu lớn, các em dần trượt ra khỏi khuôn khổ bình thưởng của gia đình, nhà trường, xã hội và đây là nguyên nhân dẫn đến việc các em phạm pháp, bụi đởi.
Quan hệ với bạn của thiếu niên là hệ tốong độc lập và bình đẳng. Thiếu niên coi quan hệ với bạn là quan hệ riêng của cá nhân và các em muổn được độc lập, không muốn người lớn can thiệp.
Trong quan hệ với bạn, vị thế của các em đuợc bình đẳng, ngang hàng. Các em mong rằng bạn phải có thái độ tôn trọng, trung thực, cởi mở, hiểu biết và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. học sinh THCS thích giao tiếp và kết bạn với những bạn học cùng lớp đuợc nhiều ngưởi tôn trọng, dễ thông cảm, chia sẽ với bạn. Mọi vi phạm sự bình đẳng trong giao tiếp, trong quan hệ như kiểu căng, chơi trội, coi thường bạn... thường bị nhóm bạn lên án và tẩy chay.
Quan hệ với bạn của thiếu niên là hệ thổng yêu cầu cao và máy móc. So với lứa tuổi nhỏ và cả các lứa tuổi sau này, quan hệ của tuổi thiếu niên được xây dụng trên cơ sở các chuẩn mực tình bạn cao và chặt chẽ. Thiếu niên yêu cầu rất cao về phía bạn cũng như bản thân. Các phẩm chất tâm lí được các em đặc biệt coi trọng là các phẩm chất liên quan trục tiếp tới sự kết bạn như sự tôn trọng, bình đẳng, trung thực, dám hi sinh quyền lợi của mình vì bạn... Vì vậy, các em thường lên án các thái độ và hành vi từ chối giúp bạn, ích kỉ, tham lam, tự phụ, hay nói xấu bạn, nịnh bợ, xu thời... Ngoài ra, thiếu niên cũng coi trọng các phẩm chất liên quan tới các thành tích trong học tập và tu dưỡng của bạn như sự thông minh, chăm chỉ, kiên trì, nhiệt tình và có trách nhiệm đối với công việc chung của nhóm...
Đáng lưu ý là các yêu cầu về chuẩn mực trong tình bạn của thiếu niên về cơ bản phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội và là cơ sở của lí tượng đạo đức xã hội đang hình thành và phát triển ở tuổi thiếu niên. Đồng thởi cần thưởng xuyên quan tâm, giúp các em tránh sự cường điệu hoá, tuyệt đối hóa các chuẩn mực đó trong ứng xủ hằng ngày; tránh sự ngộ nhận những phẩm chất này với các nhận thức, thái độ và hành vi không phù hợp như sự bướng bỉnh trước người lớn, sự bao che khuyết điểm, a dua với nhóm bạn cùng làm việc tiêu cực vì “lởi hứa danh dự"...
Sắc thái giới tính trong quan hệ với bạn ở thiếu niên: Sự dậy thì đã kích thích thiếu niên quan tâm đến bạn khác giới. Tụ ý thức phát triển giúp thiếu niên nhận thức được đặc điểm giới tính của minh, ở các em đã xuất hiện những rung động, những cảm xúc mới lạ với bạn khác giới.
Tình bạn với người khác giới đã khác hẳn lứa tuổi trước. Tình bạn giữa các em trai và gái thưởng nảy sinh ở những lớp cuối cấp (lớp 8, lớp 9) và sự gắn bỏ giữa các em có thể sâu sắc. Sự quan tâm đến bạn khác giới có ý nghĩa đổi với sự phát triển nhân cách

File đính kèm:

  • docxbai_thu_hoac_boi_duong_thuong_xuyen_module_thcs_1_dac_diem_t.docx
Giáo án liên quan